ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 6-6-25 12:13:33
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Một lần về thăm Mẹ

Báo Cà Mau (CMO) Sáng 9/2, Cà Mau rộn ràng ngày hội tòng quân, qua màn ảnh, Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) Phạm Thị Liên xúc động khi bắt gặp những người mẹ ôm tiễn con lên đường thực hiện nghĩa vụ với Tổ quốc, nước mắt chực trào: “Hồi đó khi thằng con từ giã theo chú, theo anh làm cách mạng, nhớ lại cảnh đầu đội thúng bông, con từ giã ra đi mà lòng xốn xang...”.

Trên khuôn mặt đầy vết thời gian, những giọt nước mắt len qua hàng mi và khoé mắt lăn dài trên gò má xương gầy, đôi mắt sâu thẳm đượm nỗi buồn, mẹ ngân vang mấy câu thơ:

“Thúng bông đội trắng mái đầu

Nhìn cha nhìn mẹ lòng nào chẳng thương

Thương cha thương mẹ lạ thường

Thương vậy thì lên đường cứ lên”

Chín mươi mốt tuổi, giọng mẹ vẫn rắn rỏi. Ngày tiễn con ra trận, mẹ chẳng thể ngờ đó là lần cuối cùng được nhìn thấy núm ruột của mình.

Mẹ VNAH Phạm Thị Liên hiện sống cùng người con trai út ở ấp Lý Ấn, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước. Người con mẹ nhắc nhớ là liệt sĩ Huỳnh Văn Việt, hy sinh năm 1971 khi anh đang tuổi thanh xuân 19, là con lớn trong gia đình. Chồng mẹ là liệt sĩ Huỳnh Văn Nhậm, hy sinh năm 1973. Nỗi đau mất mát dồn dập vẫn còn hằn sâu trong ký ức. Với mẹ, không còn nỗi đau nào hơn thế nữa, mẹ đã mãi mãi mất con, mất chồng.

Mẹ VNAH Phạm Thị Liên nâng niu di ảnh chồng, liệt sĩ Huỳnh Văn Nhậm, hy sinh năm 1973.

“Hồi đó thằng con hy sinh trước. Ổng ở dân quân của tỉnh, cả tháng mới dìa một lần. Có bận mẹ dỗi hờn, ông làm sao chứ, ông mà có bề gì chắc tôi cũng chết luôn. Ổng nói, bà chết rồi bỏ con cho ai. Ổng biết ổng sẽ hy sinh nên ổng căn dặn đủ điều. Ðó cũng là lần cuối mẹ gặp ổng”, quệt nước mắt, lặng nhìn di ảnh chồng được hoạ lưu giữ ký ức, mẹ nở nụ cười hiền từ: “Ổng ở mãi tuổi 43”.

Ðôi mắt mẹ lặng buồn, ánh nhìn xa xăm như đang lần tìm về quá khứ. Rồi mẹ kể, có lần chồng mẹ bị địch bắt giam vào bót Lò Heo (Phường 1, TP Cà Mau bây giờ), bị tra tấn dã man tưởng chết vẫn không khai báo. Vì không khai thác được gì nên chúng thả ông về. Vậy mà dưỡng thương ít bữa ông lại tiếp tục theo cách mạng. Trong một lần làm nhiệm vụ, ông hy sinh, khi đó mẹ không có nhà vì đem bộ đồ đơn vị cấp cho ông lên tỉnh nhuộm lại. “Có kịp gặp ổng đâu, chỉ thấy lư hương nhỏ con gái ôm trong lon sữa bò, còn bàn thờ treo trên vách”, mẹ nâng niu, vuốt ve di ảnh rồi ôm gọn vào lòng. Xoay người nhìn lên nơi những tấm bằng Tổ quốc ghi công được treo trang trọng, giọng mẹ run run: “Hồi lãnh mấy tấm bằng, nhìn rơi nước mắt, vừa tự hào, vừa đau khổ vì chồng, con hy sinh hết. Bây giờ có khi buồn nằm nhớ lại rồi bỏ qua, hổng dám nhớ nữa”, từng lời mẹ nói nghe đau nhói lòng.

Gia đình mẹ Phạm Thị Liên là gia đình có hai thế hệ Mẹ VNAH. Mẹ chồng là bà Phạm Thị Cao và mẹ ruột là bà Tô Thị Ba đều được Nhà nước tặng và truy tặng danh hiệu Bà mẹ VNAH. Mẹ Liên còn có 2 người con gái kế cũng lần lượt nối gót theo cha, theo anh làm cách mạng: một người làm y tá quân y, một người làm giao liên của huyện.

Cuộc đời mẹ chịu nhiều đau thương, mất mát, nên mẹ hiểu được cái giá của hoà bình, của sự đoàn tụ; còn những hy sinh, mất mát của riêng mình, mẹ xem đó là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người dân Việt Nam trong lúc đất nước cần.

Mẹ Liên nhắn nhủ: “Thấy các con lên đường làm nhiệm vụ, vừa mừng vừa tủi, mà mừng nhiều hơn. Các con còn mạnh khoẻ, cố gắng gìn giữ, xây dựng cho đất nước mình giàu đẹp, để các em nhỏ lớn lên tiếp bước. Hôm đứa cháu Chủ tịch (cách mẹ Liên gọi thân thương đồng chí Huỳnh Quốc Việt, Uỷ viên dự khuyết BCH Trung ương Ðảng, Phó bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh - PV) vô thăm mẹ, mẹ mừng vui lắm nên có đọc mấy câu thơ của Tố Hữu cho nó nghe như một lời nhắn gửi, dặn dò các con dù trong hoàn cảnh nào cũng phải bền lòng, vững chí".

Thế hệ trẻ chúng tôi cảm thấy thực sự may mắn khi được nghe kể về chuyện đời, những hy sinh lặng thầm và vĩ đại của những người Mẹ VNAH cho đất nước. Sự đôn hậu, hiền từ, đức hy sinh cao cả của mẹ Liên là tấm gương soi sáng cho bao thế hệ học tập và noi theo./.

 

Băng Thanh

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.