ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 14-8-25 16:31:43
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Một lòng theo Ðảng

Báo Cà Mau (CMO) Vừa qua, được cơ quan phân công, tôi có chuyến theo đoàn cán bộ do đồng chí Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên BCH Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh, làm trưởng đoàn, đưa tin đoàn đến trao Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng cho đảng viên cao niên Vũ Khắc Trung (Tư Trung) đợt 19/5. Một buổi lễ trang trọng, đầy cảm xúc và ý nghĩa. Ai nấy lặng mình nghe ông Tư Trung kể về cuộc đời binh nghiệp đầy máu lửa. Ông tham gia kháng Pháp, chống Mỹ và có mặt trong đoàn quân làm nghĩa vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia. Còn vợ ông, bà Nguyễn Thị Dư cũng đã 63 năm tuổi Đảng, dâng hết tuổi xuân cho ngày giải phóng.

Suốt buổi, dù lúc trò chuyện hay khi phát biểu, đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ đều trân trọng gọi bằng “Chú Tư kính mến” và khẳng định: “Những đồng chí cao niên tuổi Đảng trưởng thành trong chiến đấu như chú Tư, thím Tư là vốn quý của Đảng bộ, của xã hội, là tấm gương sáng để cán bộ, đảng viên và Nhân dân noi theo”.

Bí thư Tỉnh uỷ Nguyễn Tiến Hải ân cần thăm hỏi sức khoẻ đồng chí đảng viên cao niên Vũ Khắc Trung.

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”

Lịch sử đã chọn và thử thách tấm lòng son sắt, kiên trung của ông Võ Thành Ngoạt (tên khai sinh của ông Tư Trung). Ông sinh ra trong gia đình nghèo ở Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh ngày nay, mồ côi cha mẹ từ năm lên 4, tuổi nhỏ phải đi làm thuê phụ giúp ông bà nội trong cuộc mưu sinh. Mang thân phận của người dân mất nước, chứng kiến bao cảnh đồng bào bị giặc đàn áp, bóc lột, trong ông sục sôi ý chí giết giặc. Khi cách mạng tháng 8/1945 diễn ra, lúc đó ông 17 tuổi đã đầu quân vào Vệ quốc đoàn, trở thành chiến sĩ Đại đội 1, Chi đội 14 (Khu 8).

Cuộc đời hoạt động cách mạng của ông Tư Trung gắn liền với các đơn vị của Quân khu 8, từ khi là chiến sĩ cho đến ngày về hưu năm 1987 được phong cấp hàm trung tá. Cái tên Tư Trung đã từng là nỗi khiếp sợ đối với quân thù từ chiến trường miền Bắc đến miền Nam, bởi sự mưu trí, dũng lược. Điều đó được thể hiện qua nhiều trận đánh, ông Tư Trung được chỉ huy tin tưởng giao nhiệm vụ bố trí trận địa, vũ khí, nhân lực... Trong hoàn cảnh nào, cương vị nào ông vẫn giữ tròn khí tiết và niềm tin vào lý tưởng của Đảng.

Ông Tư Trung kể: “Tôi được kết nạp Đảng tại chiến trường sau 2 năm tham gia quân ngũ. Buổi lễ kết nạp tuy bài trí đơn sơ, không cầu kỳ, song vô cùng trang nghiêm bởi không khí thiêng liêng trong phút giây sinh tử của người lính trước giờ ra trận. Niềm vinh dự ấy trở thành nguồn sức mạnh vô hình, tôi mang theo vào từng trận đánh trên khắp mọi miền đất nước và những tháng ngày vượt dãy Trường Sơn”.

Khi đang học lớp Công trưởng ở Thái Nguyên, năm 1961, ông Tư Trung được giao nhiệm vụ mới, cùng đồng đội vượt Trường Sơn chi viện chiến trường miền Nam. Trong hồi ức, ông Tư Trung không thể quên suốt 3 tháng ròng vượt qua các dốc cao dựng đứng, có ngọn núi phải leo cả ngày mới tới đỉnh; hay lúc vượt suối, mọi người phải cho quần áo vào bao ni-lông buộc thành phao bơi, rồi bám dây lội qua. Ông Tư Trung kể: “Chúng tôi đi bộ men theo đường mòn, có lực lượng giao liên dẫn đường. Mỗi lần đến kho lương thực nhận gạo 7 ngày, để nấu cơm ở các điểm dừng chân. Hành quân đến trạm, nếu trời còn sáng thì dễ kiếm củi nấu cơm, còn đến tối thì rất khó khăn, nên anh em phân công nhau, trên đường hễ gặp cành cây khô thì bẻ đem theo phòng khi bất trắc”.

Những tháng ngày hành quân vượt Trường Sơn thật khốc liệt và khó có thể diễn tả hết. Tôi hiểu được điều đó phần nào từ ánh mắt buồn xa xăm và khoảng lặng của câu chuyện. Giọng ông bỗng trầm lại: “Ngày đi, đêm nghỉ, cơm vắt, ngủ rừng, lại trèo đèo lội suối, mang vác nặng nề đến 40 kg chứ chẳng vừa… Nhiều người đã vĩnh viễn nằm lại trên đường hành quân bởi kiệt sức, bởi bom đạn và bệnh sốt rét”.

Còn đối với ông Tư Trung, đi bằng ý chí vì đồng bào miền Nam, chiến trường miền Nam đang chờ đợi…

Bí thư Tỉnh uỷ Nguyễn Tiến Hải trao Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng cho đảng viên Vũ Khắc Trung và chia vui cùng gia đình.

Vợ chồng đồng lòng chiến đấu

Bom đạn chiến trường tôi luyện nên một chiến sĩ cách mạng kiên trung và đã se duyên, vun đắp một mối tình bền chặt. Và cũng từ mối tình ấy đã tiếp thêm sức mạnh để họ cùng vượt qua biết bao hiểm nguy, gian khổ vẫn giữ trọn lời thề với Đảng, trách nhiệm với quê hương, đất nước.

Giai đoạn 1951-1954, ông Tư Trung là Trung đội phó, Trưởng quân lực Tiểu đoàn 307, hoạt động mạnh mẽ trên khắp chiến trường Nam Bộ. Những ngày đóng quân ở Tân Lộc (huyện Thới Bình), phối hợp với lực lượng địa phương làm nhiệm vụ, tại đây ông gặp gỡ và kết duyên chồng vợ với nữ giao liên Nguyễn Thị Dư, người con gái vóc dáng nhỏ nhắn nhưng lại có tinh thần dũng cảm, gan dạ.

Ngày cưới diễn ra đơn sơ, nhanh chóng để đồng đội cùng chứng kiến, chia vui. Ông Tư Trung nhớ lại: “Cưới vợ được vài ngày thì đơn vị chuyển địa điểm đóng quân, để chuẩn bị tiếp quản thị trấn Cà Mau. Trước khi lên đường, tôi nói với bà ấy, mình phải tạm gác chuyện tình cảm riêng tư để tập trung chiến đấu. Dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải giữ vững khí tiết người chiến sĩ cách mạng”.

Ngày ông Tư Trung tập kết ra Bắc (năm 1955), cũng là năm bà Dư sinh người con đầu lòng. Đến khi đứa bé lên 10 tuổi, ông Tư Trung làm nhiệm vụ ở chiến trường miền Nam, mới được biết mặt con. Bà Dư hồi nhớ: “Vợ chồng tôi có 3 mặt con, mỗi đứa ra đời đều để lại một kỷ niệm khó quên. Đứa lớn thì sinh vào năm tập kết, đứa con gái kế sinh năm 1964 - vợ chồng gặp nhau sau 10 năm ngày cưới, con trai út sinh vào năm giải phóng 1975”. 

Vừa nuôi con vừa làm nhiệm vụ, đằng đẵng lo âu chồng chiến đấu phương xa, nhưng bà Dư vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng, làm trưởng cán sự phụ nữ xã, rồi công tác binh vận, uỷ viên an ninh xã và dạy các con lòng căm thù giặc… Có lần khi vận động bà con tham gia mít tinh lên án tội ác của đồn giặc đóng ở Cầu số 3, bà Dư bị giặc bắt, tra tấn nhiều ngày liền, nhưng bà vẫn một mực không khai báo.

Trong cuộc trò chuyện với các con của ông bà, ai nấy đều tự hào về quá khứ anh hùng của cha mẹ. Tấm gương mẫu mực, liêm khiết của cha mẹ đã hun đúc ý chí, nghị lực để con cái vươn lên. Chị Võ Thị Lệ Hằng, người con thứ 3, kể lại: “Nhớ lúc mẹ tôi bị địch bắt, tôi mới 8 tuổi, thương mẹ vất vả việc nước lại bị hành hạ đòn roi, tôi ở nhà cùng chị Hai đi cắt lá gói bánh, nấu xôi, mang nước cho bộ đội trú ẩn trong xóm, để mấy chú có sức khoẻ đánh giặc cứu mẹ. Chị tôi gan lắm, bị giặc chặn đường mấy lần mà vẫn bình tĩnh, lanh lẹ”. 

Ngày giải phóng, niềm vui sum họp gia đình chưa lâu, ông Tư Trung tiếp tục nhận nhiệm vụ mới, giúp sức chiến đấu ở chiến trường Campuchia. Còn bà Dư được phân công làm Bí thư Chi bộ Ấp 5, xã Tân Lộc, góp sức xây dựng quê hương đổi mới, một lòng một dạ chờ ngày đoàn tụ gia đình.

Cuộc đời của vợ chồng ông Tư Trung gắn liền với lịch sử thăng trầm của quê hương, đất nước. Nay tóc đã bạc, mắt đã mờ, song ở họ luôn hừng hực lửa khi nói về những năm tháng chiến đấu. Tinh thần ấy tiếp tục được phát huy trong xây dựng cuộc sống mới. Anh Lê Minh Thông, Bí thư Chi bộ ấp, cho biết: “Chi bộ có 26 đảng viên, trong có 9 đảng viên cao niên. Chi bộ luôn xem họ là những bậc “cố vấn”, khi công việc gặp khó khăn là nhờ các cô, chú chỉ dạy. Lúc chú, thím Tư còn khoẻ, mỗi cuộc họp chi bộ đều có mặt, đóng góp nhiều ý kiến hay. Tinh thần, trách nhiệm của chú Tư, thím Tư là tấm gương sáng để thế hệ đảng viên chúng tôi học tập, noi theo”./.

 

Mộng Thường

 

Liên kết hữu ích

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.