ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 6-2-25 17:12:20
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Người chỉ huy biệt động thành Cà Mau

Báo Cà Mau (CMO) Cách đây đúng 1 năm, đọc được bài báo 2 kỳ của người chị đồng nghiệp đăng trên báo Cà Mau với tựa đề “Ðội biệt động thị xã Cà Mau - Gặp người trong cuộc sau hơn 40 năm”, tôi hết sức xúc động vì thông tin, tư liệu quý mà bài viết cung cấp. Có thể nói, bài viết đã bổ sung một mảng khuyết mờ trong những dòng chính sử của địa phương Cà Mau về đội biệt động thành với những chiến công vang dội, đặc biệt là những câu chuyện rất đời, rất cảm động về nữ Anh hùng LLVTND Hồ Thị Kỷ. Suy nghĩ rất nhiều, tìm đọc thêm tư liệu, cuối cùng, tôi đến tìm gặp ông Lâm Anh Lữ - người chỉ huy đội biệt động năm xưa.

Khi đến nhà, ông Lữ lấy ngay tờ báo Cà Mau được biếu và nói: “Ðây, trong này viết khá đầy đủ. Cháu có thể đọc tham khảo thêm”. Nhìn ông già ở độ tuổi U90 giản dị, minh mẫn, cần cù lao động như một nông dân chính hiệu, ít ai nghĩ rằng đây là một pho sử sống quý giá, hiếm hoi còn lại của Cà Mau. Không. Chúng tôi không đến đây để viết về những trận đánh của biệt động thành năm xưa, về sự kiên trung, gan dạ, anh dũng của nữ Anh hùng Hồ Thị Kỷ. Bởi việc đó, đồng nghiệp của chúng tôi đã làm quá tốt.

Ông Lâm Anh Lữ lần đọc lại bài viết đăng trên báo Cà Mau về lực lượng biệt động thành của tác giả Trang Thăm.

Tôi mở lời: “Cháu muốn tìm hiểu và viết về cuộc đời hoạt động cách mạng của ông”. Ông Lữ cười: “Chú thì có gì để nói, chiến công và hy sinh đều là xương máu, là công lao của đồng chí, đồng đội”. Chợt nhớ đến bộ phim tài liệu về biệt động thành Sài Gòn, trong đó người chỉ huy Tư Cang (Ðại tá Nguyễn Văn Tàu) cũng từng trả lời báo chí như thế khi hỏi về mình. Bởi với những người chỉ huy, còn sống cho đến ngày hoà bình, nhìn thấy đất nước phát triển, đó là món quà may mắn quá lớn. Phía sau những người chỉ huy là nỗi day dứt, tiếc thương về những người đồng đội, đồng chí đã mãi mãi ra đi vì sự nghiệp cách mạng.

Ông Lữ tóm tắt cuộc đời mình ngắn gọn. Là trai thị xã Cà Mau, gốc gác người Hoa, ông Lữ thời hoa niên chọn nghề “gõ đầu trẻ” ở Trường Hoa văn Cà Mau (Trường Dục Tài). Không khí cách mạng bùng lên, ông tham gia vào các phong trào vận động thanh niên, học sinh tại thị xã Cà Mau tham gia kháng chiến. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, ông Lữ nhận chỉ thị của Bí thư Thị xã uỷ Cà Mau Hai Phú (Lữ Trung Tấn) rút về vùng giải phóng. Trong đợt 2 Mậu Thân, ông Lữ chịu trách nhiệm dẫn đường cho Ðại đội 962 đánh tuyến Rạch Rập, Ty Cảnh sát, Phạm Ngũ Lão.

Tháng 5/1968, tổ chức quyết định thành lập đơn vị biệt động hợp pháp nội thành, do ông Lữ phụ trách Ðội trưởng Ðội Biệt động thị xã Cà Mau với nhiệm vụ tạo chân đứng hoạt động hợp pháp, kết hợp đánh mìn xe, phương tiện chiến tranh và các vị trí trọng yếu của địch. Ðến cuối năm 1968, tình hình ác liệt, đơn vị rút về đóng tại Cây Khô (xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình ngày nay). Giai đoạn từ 1968 đến 1971, Ðội Biệt động thành thị xã Cà Mau đánh hàng chục trận lớn nhỏ, gây ra nỗi sợ kinh hoàng cho giặc. Bởi biệt động thành có hơn 80% quân số (khoảng 50 người) là nữ, nhiều thành viên ở tuổi 14-16, để tránh gây chú ý cho địch.

Ông Lữ hồi nhớ, đánh biệt động thành, một trận dù lớn hay nhỏ đều phải cân não. Thứ nhất là điều nghiên địa hình, thói quen của giặc, bố trí lực lượng hợp lý, chuẩn bị các phương án có thể xảy ra. Nếu thất bại, coi như cầm chắc cái chết. Là chỉ huy, ông luôn căn dặn, “không được phép thất bại, điều quan trọng nhất là bảo toàn lực lượng”. Hai vấn đề hình như mâu thuẫn nhau, nhưng trong hoàn cảnh đó, ông không thể nói khác. Nếu vì bảo toàn lực lượng mà không đánh được thì làm sao hoàn thành nhiệm vụ. Còn nếu đánh cảm tử, thì mất mát ấy sẽ không có gì bù đắp được.

Trận đánh ty cảnh sát quốc gia An Xuyên của nữ Anh hùng Hồ Thị Kỷ ngày 3/4/1970 đã không theo nguyên tắc của ông đề ra. Theo ông Lữ kể, khi ấy có 2 mũi đánh, mũi Hồ Thị Kỷ phụ trách đánh ty cảnh sát. Trước khi đi, Hồ Thị Kỷ có hỏi ông về cách làm sao để cho nổ mìn trong tình huống khẩn cấp. Nói tới đây, ông rơm rớm nước mắt: “Chính tôi chỉ cách cho Kỷ ấn kíp nổ mìn”. Trận đánh làm thiệt hại nặng cho giặc: 18 tên đền tội, 9 bị thương, phá huỷ 1 xe Zeep, 2 xe quân sự GMC, sập một lô cốt, hỏng một mảng tường rào và một góc phòng quân cảnh. Trận đánh cũng làm tê liệt hoàn toàn kế hoạch hành quân càn quét của địch. Nhưng nữ Anh hùng Hồ Thị Kỷ, nữ Anh hùng Huỳnh Thị Kim Liên và bé Hồ Thuý Nghiêm (con ruột của đồng chí Huỳnh Thị Kim Liên, khi đó mới 3 tuổi) cũng anh dũng hy sinh.

Hỏi ông Lữ, sau trận đánh của Hồ Thị Kỷ, tâm trạng ông khi ấy ra sao, ông chậm rãi: “Trong mọi tình huống, là người chỉ huy, phải bình tĩnh, dù lòng rất đau”. Nhưng từ trận đánh này, ông đã ngẫm ra một điều: “Nhân dân Cà Mau anh hùng, những người con gái xuân sắc như Kỷ dám hy sinh cuộc đời vì lý tưởng cao đẹp, một bà mẹ ôm con mình vào trận đánh, một cháu bé 3 tuổi cũng góp phần diệt giặc, thì cuộc kháng chiến của ta nhất định thắng lợi”. Hồ Thị Kỷ đã chọn một cuộc đời vinh quang, thay vì lẽ sống thường tình.

Tình hình chiến cuộc chuyển biến mau lẹ. Ðịch hấp hối, giãy giụa. Cách mạng tính toán để đi đến một trận “sạch không kình ngạc” để giải phóng quê hương, đi tới ngày hoà bình, thống nhất. Ông Lữ được cử đi học trường đặc công của Khu đặt ở xứ Lung Tràm, quê hương bác Ba Phi. Cách mạng cần ông ở những trọng trách lớn hơn. Năm 1971, ông về Thị đội thị xã Cà Mau. Năm 1975, đồng chí Lâm Anh Lữ là Thị đội phó thị xã Cà Mau, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn K8 lực lượng vũ trang thị xã Cà Mau tiến vào trận đánh lớn cuối cùng. Và đất nước trọn niềm vui với mùa xuân đại thắng - dấu son chói lọi 30/4/1975.

Một quãng trầm trong câu chuyện. Năm 1979, ông Lữ ra quân, công tác hệ dân chánh. Ðến năm 1994 thì nghỉ hưu. 50 năm tuổi Ðảng, thương binh 3/4, hỏi ông trong cuộc đời mình, có bao giờ nuối tiếc điều gì, ông bộc bạch: “Ở đâu, làm gì, tôi là đảng viên thì phải chấp hành theo tổ chức. Tôi không tiếc gì cả. Tôi may mắn hơn nhiều đồng chí, đồng đội của mình vì còn được sống”.

Dù tuổi cao nhưng thương binh Lâm Anh Lữ vẫn hăng say lao động, luôn sống vì nghĩa lớn, việc chung.

Ông Lữ không chỉ sống, mà sống đẹp, như ông nói: “Sống sao cho xứng đáng với những người nằm xuống”. Về hưu, với ông Lữ đơn giản là có nhiều thời gian đi dạy tiếng Hoa cho lớp trẻ. Có thời gian cận kề và chăm lo cho gia đình. Ngay giữa lòng TP Cà Mau, ông Lữ gầy dựng trang trại cá, ba ba với thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm. Ông tích cực tham gia hoạt động của Hội Cựu chiến binh (CCB), góp ý tưởng và công sức thành lập Câu lạc bộ CCB sản xuất, kinh doanh tỉnh Cà Mau và đảm nhiệm chức Phó chủ nhiệm. Ðại tá Huỳnh Hoàng Vân, Phó chủ tịch Hội CCB tỉnh Cà Mau, từng chia sẻ: “Anh Lữ là CCB mẫu mực, sống vì nghĩa chung, vì đồng chí, đồng đội. Thời chiến cũng như thời bình, anh Lữ đều tận tuỵ, trung thành với Ðảng, với Bác Hồ”.

Nhìn ông Lữ ở tuổi xưa nay hiếm, chúng tôi cảm nhận rõ chuyện vinh - nhục đời người đâu thể đo đếm bằng chức vị, tiền tài. Trầm lặng. Ðiềm tĩnh. Vẫn cốt cách của người chỉ huy đội biệt động thành thị xã Cà Mau năm xưa. Ông ngại nói về mình. Ông chọn sống một cuộc đời có ích, có lý tưởng, chấp nhận đối diện sinh tử. Và, một thái độ bình thản, tích cực đón nhận mọi biến cố trong đời./.

 

Phạm Quốc Rin

Ba ông già tuổi tỵ

Ðó là ba ông già cùng làm ở Xưởng Quân giới (XQG) Cà Mau thời kháng chiến chống Mỹ. Nói về XQG này thì những người cùng thời, tham gia kháng chiến ở Cà Mau, hầu như ai cũng biết. Họ hay gọi là xưởng ông Ba Thợ Rèn (thường gọi là Ba Lò Rèn), vì ông Ba Thợ Rèn (Nguyễn Trung Thành) là người chịu trách nhiệm lập xưởng (đầu năm 1960) và rất nổi tiếng với việc sản xuất đạn pháo lăn-xà-bom, được tuyên dương anh hùng ngay đợt đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ (năm 1965); xưởng cũng hai lần được tuyên dương anh hùng.

Đi B

Nhà Bác sĩ Nguyễn Văn Thể nằm trên đường Hoàng Diệu, Phường 2, TP Cà Mau. Gian trước dành một khoảng khiêm tốn làm phòng mạch, thỉnh thoảng có vài bệnh nhân quen tới khám. Kế trong là bàn tiếp khách. Khắp phòng treo khá nhiều tranh ảnh nghệ thuật. Một cây đàn trên giá. Khi không có bệnh nhân thì ông thường ôm đàn, phong cách rất nghệ sĩ, và ông cũng thích giao du với giới văn nghệ sĩ Cà Mau.

Những lá thư còn lại

Tự nhận mình có viết thư, biết cảm nhận cái nghĩa, cái tình qua những bức thư ấy, một thời là công cụ giao lưu tình cảm gia đình, đồng đội, bạn bè, có khi là cánh én báo hiệu tình yêu nảy nở. Còn vì một tiếc nuối khác, chiến tranh đã kết thúc 50 năm, sứ mệnh của những lá thư đó cũng đã chấm dứt vai trò cầu nối của mình, những lá thư còn được giữ lại như một kỷ vật quý báu, nếu được xếp ở một góc nhỏ trong bảo tàng, chỉ những chữ đề “Con gái thương yêu của mẹ"; "Anh Chín kính mến"; "Em thân yêu...” người xem dễ chạm vào xúc động, bâng khuâng.

Ăn Tết ở làng rừng

Tôi đang mở trường tư thục, dạy trên 150 học trò. Bí thư Chi bộ xã Lương Hoà là đồng chí Tư Tài, đem nghị quyết Tỉnh uỷ Bến Tre rút tôi về Ban Văn nghệ tỉnh. Chưa kịp thu xếp đi, thì má tôi (bà Hồ Thị Luỹ) ở Cà Mau qua tới. Má tôi chẻ trái chuối xiêm ra, đưa cho tôi lá thư ngắn của anh Hai Thống (Trần Hữu Vịnh, Bí thư xã Khánh Bình Tây, sau này là Phó bí thư Tỉnh uỷ Minh Hải) kèm theo mấy lời chú Chín Thép, Uỷ viên Thường vụ xã (viết chung ý là “Đám giỗ làm lớn cúng ông bà, chú phải về quê nhà để cúng ông bà báo hiếu”).

Về địa chỉ đỏ...

Những ngày giáp Tết, lực lượng đoàn viên, thanh niên Công an tỉnh Cà Mau có chuyến về nguồn thăm các di tích lịch sử tiêu biểu

Miền nhớ thiêng liêng

Chuỗi hoạt động Kỷ niệm 70 năm Sự kiện tập kết ra Bắc diễn ra trang trọng, ý nghĩa trên đất Cà Mau. Ngược miền ký ức, những cán bộ, chiến sĩ, học sinh, đồng bào miền Nam như được sống lại giai đoạn thiêng liêng của cuộc chuyển quân lịch sử. Họ gặp lại nhau, cảm xúc dâng trào, bao câu chuyện về những ngày chiến đấu, lao động, học tập nối mạch ùa về...

Ðại tá từ du kích

Trong các bạn bè, đồng đội cùng hàm, trên dưới tuổi tám mươi, Ðại tá Trần Công Bình (Út Bình) có lẽ là người đậm chất từ du kích, tên ông gắn liền với du kích Thạnh Phú một thời lẫy lừng chốt chặn phía Nam tỉnh lỵ An Xuyên, bảo vệ vùng giải phóng Nhà Phấn, Rạch Mũi trong tầm đại bác của địch.

Nửa đời tìm nhau

Ở các địa phương miền Tây Nam Bộ, chúng tôi tìm gặp một số cán bộ lão thành, học sinh miền Nam (HSMN) tập kết ra Bắc năm 1954. Trong câu chuyện kể của họ, ngoài ký ức đẹp về tấm lòng Nhân dân miền Bắc dành cho HSMN tham gia học tập, từ nơi ở, chén cơm, manh áo... còn là những mối tình “cơ duyên trời định”. Người còn sống giờ tuổi đã ngoài 80, nhưng khi nhắc nhớ về kỷ niệm ở miền Bắc, họ lại ngời lên những ký ức năm xưa.

Người về bến cũ

Bến Sông Ðốc - địa danh gắn liền với sự kiện lịch sử chuyến tàu tập kết, những ngày cuối năm 2024 chứng kiến cuộc hội ngộ đặc biệt của cựu học sinh miền Nam. Họ, những người từng bước lên tàu rời quê hương cách đây 70 năm để ra Bắc học tập, cống hiến, nay trở lại bến xưa với mái đầu bạc trắng và trái tim ngập tràn cảm xúc.

Về căn cứ xưa, nghe kể chuyện chở che bộ đội đánh giặc...

Trong kháng chiến chống Mỹ, Xẻo Trê (thuộc ấp Lý Ấn, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước) được chọn làm nơi đóng quân của Ban Chỉ huy Tỉnh đội. Suốt 9 năm (1964-1973), căn cứ Xẻo Trê vẫn giữ được bí mật, an toàn tuyệt đối, tạo sức mạnh để tấn công kẻ địch. Ðó là nhờ vào lòng dân luôn đùm bọc che chở, hết lòng vì cách mạng, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ khu căn cứ.