ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 20-5-25 20:54:11
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nhà tôi thuở ấy

Báo Cà Mau Tôi về quê để sắp xếp, chỉ huy cất lại căn nhà cho thằng em út. Số là nó được quỹ nhà Ðại đoàn kết trợ giúp một số tiền vì là đối tượng hộ nghèo. Sở dĩ tôi tham gia sâu như thế là vì vợ chồng nó rách quá, tôi phải tính toán, cho thêm. Ðó là lý do “nổi”, còn lý do “chìm”, ẩn sâu, làm ray rứt lòng tôi nhiều năm tháng, đó chính là căn nhà cũ của ba má tôi qua đời để lại và giờ đây là nơi thờ tự ông bà nội tôi.

Khi tốp thợ dỡ ra thì mọi thứ trong căn nhà cũ dường như mục nát. Má tôi qua đời đã 32 năm, ba tôi cũng mất 19 năm, tính ra căn nhà ấy đã suýt soát 50 tuổi. Kể từ khi làm chủ căn nhà, thằng út chỉ sửa chữa sơ sài. Nếu không cất lại e rằng mùa mưa năm nay nó đổ sập cũng không chừng.

Tôi sờ lên những cây kèo, cây cột, nơi ba tôi đóng nhánh cây hình thù tương tự cái sừng nai để ông mắc nón, rồi tay mình chợt run lên vì bắt gặp những quen thuộc của một gia đình nông dân rất xưa cũ. Ở đó có đời cha mẹ nghèo tơi tả manh áo, có anh em chia nhau bữa cơm rau ruộng, mắm đồng mà lớn lên. Giờ cha mẹ đã về nơi xa khuất, anh em kẻ mất người còn, gia đình ngày cũ giờ đã tan đàn xẻ nghé từ lâu lắm.

Tôi sống đói lạnh, buồn vui trong căn nhà ấy từ khi lọt lòng mẹ cho đến năm 16 tuổi thì thực hiện một chuyến đi dài, xa xôi, biền biệt. Gần 50 năm sống đời kẻ chợ, có những đêm tôi giật mình ngơ ngác nghe trong tiềm thức có tiếng mưa thu rắc nhẹ trên mái lá nhà xưa. Trong những đợt gió bấc về se lạnh khi cận Tết, tôi lại nghe mấy ngọn gió xuân nôn nả thổi xạc xào, reo vui mái lá ở hai đầu song nhà cũ. Thế là tốc mùng ngồi dậy mà ngơ ngác kiếm tìm, rồi tự hỏi đó có phải là tiếng quê, là hồn của đất. Thời gian cứ đi miết, tóc xanh rồi tóc bạc, nhà cũ đã xa xôi như một cánh nhạn lưng trời, vậy mà nó hằn sâu trong tâm khảm, thành niềm cố hương làm thổn thức.

Nhà cũ của tôi là một loại nhà ba căn, kê tán, hai mái mà ta thường thấy ở miền Tây thời trước. Nhà nằm bên bờ sông, phía phải là một hàng dừa, bên trái là một đống rơm khô, có con trâu nằm nhai cỏ và một con gà trống gáy làm tan buổi trưa hè tĩnh mịch. Sau nhà là một cái sàn lãng và một hàng lu đựng nước mưa, nơi má tôi làm cá nấu cơm. Sau nữa là cái ao có cái cầu ao xinh xắn, nơi chị và em gái tôi ra ngồi giặt áo rồi ngơ ngác kiếm tìm mùi hoa sen, hoa súng. Xa nữa là cánh đồng chạy ngút tới chân trời, chiều xuống, ai đốt lửa để khói đốt đồng dâng cao trong chiều làm tím cả lòng.

Ðộ khoảng năm 1990 trở về trước, nhìn làng quê toàn nhà hai mái, tôi suy nghĩ, nếu làng quê miền Tây mà tách ra khỏi ngôi nhà hai mái ấy thì sẽ như thế nào nhỉ? Chắc hẳn rằng làng xưa sẽ mất đi một nét chấm phá cơ bản, hồn phách của quê hương sẽ nhạt nhoà.

Tôi có một người bạn khá thân, tên Nguyễn Thanh Tuấn, giám đốc một công ty nhà gỗ ở TP Hồ Chí Minh. Tuấn chẳng những giỏi về nhà gỗ mà còn làu thông văn hoá kiến trúc cổ, từng được một tổ chức văn hoá Pháp mời sang Pháp dựng nhà cổ để bảo tồn kiến trúc cổ châu Á. Tôi hỏi Tuấn: “Ngôi nhà hai mái ở miền Tây có dính líu gì với ngôi nhà thuần Việt?”. Tuấn bảo: “Có! Ngôi nhà thuần Việt có bốn mái, nhưng mỗi vùng miền có nhiều cái khác biệt. Như ở Bắc Bộ thì có nhà kẻ truyền, ở Trung Bộ có nhà rường Huế, còn ở ta có nhà rường Nam Bộ. Ngôi nhà hai mái ở miền Tây là một cải biến đầy tính sáng tạo của người nơi đó”.

Nghe Tuấn nói tôi nhớ lại chuyện cũ của gia đình mình. Ba má tôi cả đời mơ ước một căn nhà gỗ tràm, kê tán, xiên kèo, đòn tay bằng gỗ dầu mà không sao làm được. Bởi vì thời đó chiến tranh liên miên, đói nghèo, chết chóc cứ vây lấy đời nông dân. Mà nào chỉ có ba má tôi, cả làng quê tôi và đa phần nông dân miền Tây đều có hoàn cảnh như thế.

Xưa có câu thành ngữ: “Nhà đá, nhà đạp”. Nghĩa là nông dân che chòi, dựng lều trên bờ kinh, thềm đìa để ở tạm trú mưa nắng mà gặt mướn, hoặc thuê đất làm, đến khi ra đi chỉ cần đạp một phát là căn nhà ấy đổ sập xuống kinh, mương.

Ở làng tôi xưa, cứ bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 4 âm lịch, nghĩa là khi trời gầm gừ chuẩn bị sa mưa là cả làng chộn rộn làm nhà, sửa nhà. Gia chủ đốn lá phơi khô, vớt cây dưới đìa lên sẵn rồi đi xem ngày lành tháng tốt để định ngày dựng nhà. Cứ thế, cả xóm đến giúp, chủ nhà chỉ lo ba bữa cơm và có một tí “cay cay” vào buổi chiều kết thúc. Thậm chí sui gia, ní nót, dâu rể, cháu chắt… còn đến trước mấy bữa tiếp che lều, dỡ gỗ, bào cây.

Ngày xưa loại nhà “cột cặm lá dừng” không nghe mướn bao giờ. Bà con lối xóm đến giúp thành thạo, họ làm tất cả những công việc từ dựng sườn, lợp nhà, tề lá, làm buồng… Ở quê tôi xưa, tất cả thanh niên trong làng đều biết làm nhà, vì đó là công việc thường xuyên. 7, 8 tuổi chưa biết lợp nhà thì đi giúp lối xóm đưa lá để học cách lợp nhà. Một thanh niên lợp một ly lá đẹp được người của làng đánh giá rất cao. Mấy bà già lấy đó làm tiêu chuẩn để kén rể, mấy cô gái nhìn một ly lá đẹp là liếc mắt đưa tình với người lợp. Thế nên, trai gái trong làng ai cũng học làm nhà, học để dựng nghiệp sau này, học để chứng minh sự tài hoa với làng xóm.

Công việc làm nhà theo kiểu vần đổi công, năm nay tôi giúp anh, sang năm tôi làm nhà anh giúp lại. Qua đó, nó gắn kết tình nghĩa xóm giềng, làm nặng thêm tình nghĩa sui gia, bạn bè, dòng tộc. Ðó là một tập quán sống vì nhau, có trách nhiệm với nhau mới có thể sống được hình thành từ xưa của đất mới.

 So với ba loại nhà thuần Việt đặc trưng của ba miền mà Nguyễn Thanh Tuấn nói thì nhà hai mái ở miền Tây có khác biệt. Tuy nhiên, sự khác biệt ấy là do sự biến thể từ ngôi nhà truyền thống mà thôi. Nó biến thể theo xu hướng giản đơn trong điều kiện thiếu vật liệu xây dựng và hoàn cảnh khó khăn. Thế nhưng, nó vẫn giữ được những cái cơ bản của lối kiến trúc truyền thống. Miền Tây có ba loại nhà: nhà ba căn và nằm liền kề một dãy nhà chữ “đinh”; nhà ba căn trước, ba căn sau. Ðồng thời, còn một loại nhà một hoặc hai căn nằm liền kề là một hoặc hai chái. Như vậy, nhà ba căn nghĩa là nhà gần với nhà rường ba gian; nhà ba căn hai chái thì hai chái ấy chính là hai mái cách thể của ngôi nhà thuần Việt bốn mái. Còn ngôi nhà rường với hai dãy nhà hình chữ L thì ở Nam Bộ có nhà chữ “đinh” nằm kế với ngôi nhà ba căn… Tóm lại, ngôi nhà hai mái đặc trưng của miền Tây cũng được tuân thủ những nguyên tắc của lối kiến trúc truyền thống. Thế nhưng, sự cách thể của nó đã tạo ra một loại nhà có dáng dấp riêng, in đậm dấu ấn của vùng đất mới. Có thể nói, đó chính là văn hoá kiến trúc riêng biệt của miền Tây.

Căn nhà hai mái còn thể hiện tính cách của cư dân quê tôi. Căn nhà rường có chiều cao phổ biến là 3,6 m, thế nhưng nhà hai mái ở miền Tây thường có chiều cao 5,4 m, thậm chí có nhà còn cao đến 6,3 m. Ðiều đó cho thấy nó thoáng mát hơn. Nhà rường và nhà hai mái chỉ giống nhau ở chỗ gian giữa để thờ tự, còn lại cách bài trí hoàn toàn khác nhau.

Thường thì một ngôi nhà ba căn ở miền Tây, tính từ tâm nhà trổ ra sau được bố trí hai phòng ngủ ở hai căn hai bên, còn căn giữa là nơi sinh hoạt chung của gia đình, sau vách bàn thờ. Còn một nửa của ba căn phía trước thì căn giữa đặt tủ thờ, một bộ bàn ghế tiếp khách, hai căn hai bên người ta đặt hai bộ ngựa gõ.

Các nhà nghiên cứu tính toán rằng, không gian tiếp khách của đồng bằng Bắc Bộ chỉ chiếm 15% căn nhà, còn của nông dân miền Tây diện tích dùng tiếp khách chiếm đến 35%, thậm chí có nhà đến 45%. Chính ngôi nhà ba căn, hai mái góp phần hình thành và thể hiện được tính phóng khoáng, hiếu khách đặc biệt của người Nam Bộ. Ngôi nhà ba căn sau nhà lớn hoặc hai chái bếp hai bên hông, hay dãy nhà chữ “đinh” liền kề được bố trí đặt một bồ lúa to, phòng ngủ con gái, bàn ăn cơm và bếp nấu ăn của gia đình, nơi để vật dụng nhà nông.

Sự cai quản, phân định ngôi thứ trong căn nhà hai mái xưa rất rạch ròi, trở thành nếp của gia đình. Người đàn ông chủ hộ thì ở ngôi nhà lớn phía trước, người vợ ngôi nhà sau và con gái thì ở chái bếp. Ðiều này rất rõ khi có khách đến chơi, khách quý của gia đình thì uống nước, ăn cơm ở nhà trước, khách riêng của vợ chủ nhà thì ra nhà sau. Và khách của con gái thì dẫn ra chái bếp.

Tôi còn nhớ chị Hai tôi và sau này là em gái tôi, họ làm chủ cái giang san chái bếp thật nền nếp. Mùa khô thì bửa củi chất đầy một cự, rồi róc lá dừa bó lại thành bó chất đầy trên cây xiên chái bếp để dành nhóm lửa. Chái bếp luôn sạch sẽ, gọn gàng vì những người đến xem mắt các cô gái luôn cố tình xem cái chái bếp. Họ quan niệm rằng, đức hạnh của người con gái phô bày cả trong chái bếp. Chái bếp đặc biệt vui khi nhà có đình đám hoặc chuẩn bị Tết, bạn của chị Hai tôi, của em gái tôi xúm xít đến làm bánh trái vui đùa sáng đêm. Chái bếp không đơn giản mà nó là cái hồn của tình cảm gia đình.

Dỡ căn nhà cũ xong rồi với tư cách là người chỉ huy và hơn hết là anh trai, tôi mời vợ chồng thằng út đến tham khảo kiểu dáng của căn nhà mới. Hai đứa nó dè chừng hỏi tôi: “Hia tính thế nào?”. Tôi bảo: “Mình cất nhà tường nhưng giữ kiểu dáng nhà hai mái của ba má để lại”.

Em dâu tôi mặt buồn xo rồi lẳng lặng rút lui hồi nào không biết. Thằng em út cũng buồn xo rồi trần tình: “Hia nhìn thử xem, bây giờ cả xóm mình, cả xã mình, rồi cả tỉnh nữa có ai cất nhà hai mái đâu, họ cất nhà một mái hết. Nếu nhà này cất hai mái như xưa thì chẳng những mình làm chuyện lạ mà người ta còn cười em”.

Thế là tôi tự giác chấm dứt vai trò chỉ huy sau khi để lại khoản tiền cho thằng em mà tôi dự tính tài trợ, rồi kêu chủ thầu đến bảo cứ làm theo ý kiến vợ chồng nó. Tôi không giận, chỉ buồn, một nỗi buồn sâu kín, không liên quan đến vợ chồng thằng út. Thật ra, hai đứa em tôi có cái lý của nó. Ðã hơn 20 năm nay rồi, từ khi phong trào nuôi tôm bùng nổ, đời sống bắt đầu đi lên thì kiểu nhà một mái ở đô thị tràn về khắp nông thôn miền Tây. Có nhiều xóm làng đa số cất nhà một mái.

Nhà một mái trở thành xu hướng kiến trúc lớn rộng của xã hội, không có gì ngăn cản được. Tôi không chê trách gì nhà một mái, có lẽ sự tiện dụng, dễ làm, rẻ tiền của nó nên người ta mới chấp nhận nhanh chóng như thế. Cái mà tôi buồn, tôi quan tâm là ý thức văn hoá trong kiến trúc truyền thống. Ai cũng biết rằng nhà một mái xuất phát từ châu Âu, mà người Mỹ đã du nhập sang trong lúc họ xâm lược Việt Nam, vào thập niên 50-60 của thế kỷ trước.

Nếu tôi không lầm thì trong cảm quan của đại đa số người Việt miền Nam, nhà một mái là nhà của đô thị, chỉ phù hợp với quan cảnh đô thị. Giờ đây nó tràn về nông thôn, bằng một làn sóng bạo liệt nuốt sạch, xoá sạch những căn nhà hai mái truyền thống đầy tính sáng tạo của cư dân miền Tây. Tại sao chúng ta không một lần choáng váng về sự xâm thực văn hoá nhỉ?

Mỗi lần về quê, đứng trên mảnh đất yêu thương, đầy kỷ niệm tuổi thơ của mình rồi nhìn căn nhà một mái mới cất của thằng em út mà chạnh lòng đến xốn xang. Cũng là một căn nhà khang trang nhưng giống như ai đó bê một khối bê-tông sắt thép của thành thị vào đặt giữa làng quê bát ngát ruộng đồng, sông ngòi chằng chịt. Căn nhà giống như một cái chân giả trong thực thể của nông thôn - nó thô kệch đến đỗi xoá mất cái duyên quê. Tôi vào trong nhà, không bắt gặp một thứ quen thuộc, những điều gợi nhớ. Hồn phách nuôi dưỡng những ân tình tấm mẳn của một gia đình nông dân rất xưa cũ đã thật sự rời khỏi căn nhà một mái của thằng em út.

Nhiều năm nay tôi có nỗi buồn về căn nhà cũ của gia đình mình. Trong đó lẫn lộn niềm ray rứt về sự truyền lửa, cảm thụ truyền thống gia đình của lớp con cháu tôi. Thế là tôi chắt mót hết tiền mời Nguyễn Thanh Tuấn xuống cất cho tôi căn nhà ba căn, gần giống với nhà rường Nam Bộ để tôi thờ cha mẹ và ông bà tôi. Ngôi nhà không đắt tiền, chỉ suýt soát căn nhà cấp bốn, vậy mà ở rất mát, làm nhà thờ gia đình rất phù hợp. Ðược bà con lối xóm khen. Và trên hết là lòng tôi yên ổn được đôi phần.

Ở quê tôi xưa có cái nếp là gần Tết người ta cất nhà, sửa nhà, trang hoàng nhà cửa để ăn Tết. Tết năm nay tôi cũng bắt chước người xưa nói đôi điều về căn nhà lớn của nông thôn miền Tây. Dĩ nhiên tôi không kêu gọi phải bê nguyên xi một căn nhà hai mái cột cặm dừng lá dừa nước úp chụp lên làng quê miền Tây vào giữa thời buổi hiện đại, kinh tế phát triển. Mà tôi muốn nói đến một căn nhà mẫu mực, nó khang trang, tiện dụng và kế thừa, rút ra được những tinh tuý, hồn phách của căn nhà hai mái truyền thống đầy tính sáng tạo. Ðể cảnh quan miền Tây mãi mãi là một vùng đất nên thơ, hiền hoà và buồn dìu dịu, để những đứa con được sinh ra ở đó dù có đi đến đầu gành cuối bãi vẫn đau đáu một đời./.

Bút ký của Phan Trung Nghĩa

Tám Nhanh làm giàu

(CMO) Thực ra gọi ông là Tám Nhanh là theo thứ bên vợ, bà Tám Nhã (Trần Thị Nhã). Ông Tám Nhanh sinh năm 1963, là con duy nhất của Liệt sĩ Võ Văn Năm. Cha ông hy sinh khi bà Nguyễn Thị Dẽ đang mang thai ông.

Nét chấm phá từ bức tranh giảm nghèo

(CMO) Tỷ lệ hộ nghèo giảm 2,76%, vượt kế hoạch đề ra, tương đương với 687 hộ đã vươn lên thoát nghèo. Đời sống của người dân đang từng ngày khởi sắc, bức tranh kinh tế - xã hội huyện nhà có nhiều thay đổi. Năm nay, bà con huyện Ngọc Hiển đón cái Tết ấm no, sung túc hơn.

50 năm - vọng mãi bản anh hùng ca

(CMO) Tết này nữa là tròn 50 năm cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Trong khí thế hừng hực của cách mạng miền nam, ngày ấy quân và dân Cà Mau đã thấy hoà bình, thống nhất đang đến thật gần.

Năm mới thắng lợi mới

(CMO) Năm 2017, trong bối cảnh còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, song, với sự đoàn kết, nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị tỉnh nhà tiếp tục chuyển biến tích cực, toàn diện trên các lĩnh vực. Đây là nỗ lực lớn, là tiền đề quan trọng để Cà Mau thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ của năm bản lề 2018.

Vững tâm bước vào năm mới

(CMO) Là tỉnh cách xa trung tâm chính trị, kinh tế của vùng và cả nước, điều kiện đi lại hết sức khó khăn; là "đứa con út chót" ở nơi cuối cùng Tổ quốc giữ gìn biên cương lãnh thổ nên Cà Mau được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước.

Cho ngày xuân bình yên

(CMO) Không khí xuân đã tràn ngập trên các nẻo đường, người người, nhà nhà nô nức xuống phố hoà vào lễ hội của mùa xuân. Hoà trong dòng người ngược xuôi, tấp nập là hình ảnh các lực lượng làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự. họ luôn căng mình, túc trực 24/24, giữ bình yên cho ngày xuân.

Trao nông dân cơ hội làm giàu

(CMO) Năm 2017, huyện Thới Bình mạnh dạn tổ chức và liên kết thực hiện nhiều mô hình sản xuất mới, cách làm hay mang lại hiệu quả thiết thực, được nhiều nông dân quan tâm áp dụng vào sản xuất đạt hiệu quả cao.

Chó "độc nhãn"

(CMO) Quê tôi, mùng Ba Tết là ngày mặc định ai có con "gửi" thầy cúng đều mang nhang, đèn, gà thả vườn đến vái lạy, thay tom. Nhà tôi hơn mười năm trở lại đây cũng được cái vinh hạnh gần giống vậy. Người nhờ vả, người đồn đại theo hướng tôn vinh nhưng sau trước gì cũng vẹn tình, quà cáp hoặc phong thư... Có điều, họ không "thần tượng" tôi mà là con chó “độc nhãn”.

Trên dòng kinh Tám Khệnh

(CMO) Dòng kinh Tám Khệnh hôm nay trong tiết trời se se lạnh bỗng trở nên nhộn nhịp lạ thường. Những chiếc ghe chở cá tươi nối đuôi nhau cập bến. Không cần đợi lệnh phân công của ông chủ, lần lượt nhóm thanh niên khuân vác cá lên bờ, còn nhân công làm thuê thì bắt tay vào công việc thường nhật: phân loại cá, làm cá, phơi cá. Tiếng trò chuyện, tiếng nói cười huyên náo cả một khúc sông.

Động lực giảm nghèo

(CMO) Đảng viên giúp đỡ hộ nghèo là việc làm không mới đối với huyện Phú Tân và trở thành một trong những tiêu chí đánh giá đảng viên, tổ chức Đảng hằng năm. Song, cái mới ở đây là sự phối hợp chặt chẽ thực hiện các giải pháp đồng bộ, từ đó, tạo động lực, niềm tin để hộ nghèo phấn đấu tự vươn lên, không trông chờ, ỷ lại.