ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 6-6-25 13:02:09
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nhớ một thời Ðội Chiếu bóng Cà Mau - Ninh Bình

Báo Cà Mau (CMO) Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Trung ương Đảng và Bác Hồ phát động kết nghĩa Bắc - Nam, ngày 23/1/1960, tỉnh Ninh Bình và Bạc Liêu (gồm Bạc Liêu và Cà Mau ngày nay) đã kết nghĩa nhau. Có rất nhiều việc mà tỉnh Ninh Bình thực hiện bày tỏ tấm lòng với Cà Mau khi ấy, trong đó có một sự kiện đậm dấu ấn là Ninh Bình đã tặng Cà Mau máy chiếu phim và đưa người theo phục vụ.

Câu chuyện diễn ra cách nay hơn nửa thế kỷ, những người phụ trách đội chiếu bóng ngày nào người hy sinh, người mất, người bệnh tật... Sau những lòng vòng dò hỏi, tìm kiếm, tôi có được thông tin của 1 trong 2 người tình nguyện từ Ninh Bình vào Cà Mau phục vụ cùng máy chiếu ngày ấy, đó là ông Nguyễn Văn Huệ (Bảy Huệ).

“Chuyện gần 60 năm rồi, giờ tôi đã 87 tuổi, quên nhiều lắm”, ông Bảy Huệ mở đầu câu chuyện khi tôi liên hệ với ông qua điện thoại, vì thời gian gấp, mà ông thì ở tận phường An Thới, quận Bình Thuỷ, TP Cần Thơ, không thể gặp trực tiếp được. 

Ông Bảy Huệ (trước) và ông Hai Cương, hai người con tỉnh kết nghĩa Ninh Bình đang tập chèo và bơi xuồng trên sông Cái Chim, huyện Cái Nước, để thành thạo việc chèo bơi, thuận lợi trong quá trình vận chuyển máy chiếu phim đi phục vụ cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Cà Mau. Ảnh: NSNA VÕ AN KHÁNH

Rồi ông chia sẻ những gì còn nhớ được. Sau khi chọn kết nghĩa với Bạc Liêu, tỉnh Ninh Bình phát động rất nhiều chiến dịch gắn liền tên 2 tỉnh. Đặc biệt, chiến dịch Hòn Khoai - Quang Trung quy mô lớn nhất, nhằm đẩy mạnh sản xuất để có nhiều lương thực, thực phẩm chi viện cho chiến trường lớn miền Nam.

Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ cùng với các cơ quan chức năng khi đó tuyên truyền sâu trong Nhân dân để bà con hiểu tinh thần, ý nghĩa của việc kết nghĩa với Bạc Liêu. Ngành văn hoá - thông tin tỉnh Ninh Bình sau khi bàn bạc, đã chọn làm một việc hết sức ý nghĩa là tặng cho Bạc Liêu máy chiếu phim; điều đặc biệt là, giao Phòng Chiếu bóng của tỉnh có trách nhiệm bán vé lấy tiền mua máy tặng đồng bào kết nghĩa. Việc làm này nhằm mục đích để tình cảm người dân Ninh Bình với tỉnh kết nghĩa sâu sắc hơn. 

Khi đó phong trào mua vé xem phim để ủng hộ tiền mua máy chiếu cho bà con Bạc Liêu diễn ra rất sôi nổi. Ông Bảy Huệ còn nhớ rõ, có bà cụ cần mẫn bó từng cây chổi rơm, chổi đót bán để lấy tiền mua vé coi phim ủng hộ. Có em bé không ăn sáng, lấy tiền đó mua vé. Thậm chí có em hăng hái đi bắt cua bán để có tiền mua vé. Song song đó, Phòng Chiếu bóng phát động trong toàn phòng viết đơn tình nguyện đi theo máy vào Bạc Liêu phục vụ công việc chiếu bóng. Dẫu biết vào miền Nam là đi vào chiến trường ác liệt và đoạn đường đi cũng đầy gian nan vất vả, nhưng tinh thần tình nguyện hết sức sôi nổi.

“Bấy giờ có hơn 100 người đăng ký, cuối cùng tôi và đồng chí Hai Cương (Phạm Như Cương) được chấp thuận đơn”, ông Bảy Huệ còn lâng lâng niềm xúc động, tự hào.

Rồi ông kể tiếp: “Sau đó tỉnh bàn giao người và máy cho Hội đồng hương Bạc Liêu tại Hà Nội. Đến đầu tháng 10/1965, tôi và đồng chí Hai Cương được lên Hà Nội học chính trị. Chủ yếu là nghe thời sự miền Nam, rồi ăn uống bồi dưỡng, rèn luyện sức khoẻ, tập mang vác nặng để vượt Trường Sơn”.

Lúc đó ông Bảy Huệ đảm nhận công tác kỹ thuật của Phòng Chiếu bóng, ông 30 tuổi, ông lập gia đình 6 năm, mới có con trai hơn tháng tuổi. Mặc dù rất quyến luyến, nhưng ông đang gánh lãnh trách nhiệm lớn lao là mang cả tình cảm, tấm lòng bà con Ninh Bình vào tặng quê hương kết nghĩa nên đâu thể chùng lòng. Ra đi, ông cũng chẳng biết khi nào mới được quay về, chỉ biết dặn dò vợ chăm sóc con, chu toàn việc gia đình, hẹn trùng phùng sau ngày đất nước thống nhất.

Theo kế hoạch được đường dây giao liên cho biết, sẽ phải mất hơn 6 tháng vượt Trường Sơn mới tới Bạc Liêu. Máy thì được gửi theo tàu vận tải đường Hồ Chí Minh trên biển. Mỗi người chỉ mang theo đồ đạc cá nhân, lương thực, thực phẩm và súng. Ngày 3/2/1966 bắt đầu khởi hành. Mang vác nặng, trèo đèo lội suối cực nhọc, đói khát, bệnh sốt rét hoành hành, nhưng tình cảm thiêng liêng với quê hương kết nghĩa đã tiếp thêm ý chí, nghị lực, cuối cùng 2 người con Ninh Bình cũng đến được Trung ương Cục miền Nam ở Tây Ninh. Bấy giờ, được tin tỉnh Bạc Liêu không còn nữa do tách một phần về Sóc Trăng, một phần về Cà Mau. Vậy là 2 ông được phân công về Cà Mau. Đi thêm gần 2 tháng nữa thì đến tỉnh cuối cùng đất nước. Mừng vui không sao tả xiết. Sau khi nghỉ ngơi, các ông cất công đi tìm kiếm máy đèn phù hợp.

Đến ngày 1/10/1966, tại ấp Giáp Nước, xã Phú Mỹ, huyện Phú Tân, Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Cà Mau tổ chức buổi lễ trọng thể đón tiếp 2 người con tỉnh Ninh Bình vô công tác theo tinh thần kết nghĩa và ra mắt buổi chiếu phim đầu tiên.

“Có gần 3.000 người dự. Lúc đầu chiếu phim thời sự tài liệu, cuối cùng là bộ phim "Chung một dòng sông". Bà con cổ vũ hết sức sôi nổi. Mình vượt mọi khó khăn để về đến Cà Mau, lại được các đồng chí lãnh đạo và Nhân dân đón tiếp thân tình, nồng hậu nên cảm xúc vui không thể tả được, như đứa con xa xứ về đất mẹ vậy”, ông Bảy Huệ bồi hồi nhớ lại.

Sau đó 2 ông tập ăn theo các món của Cà Mau, bồi dưỡng sức khoẻ, bởi leo Trường Sơn mất gần chục ký lô. Rồi tập chèo, tập bơi xuồng... Khi sức khoẻ hồi phục dần, các ông bắt đầu xin thêm người lập đội chiếu bóng và phục vụ liên tục. Mỗi năm bao nhiêu suất chiếu ông cũng không nhớ nổi. Hễ có yêu cầu là phục vụ. Phục vụ bộ đội, cán bộ, Nhân dân. Phục vụ vùng giải phóng, vùng tranh chấp. Thường mỗi buổi chiếu, có khi trên 1.000 người xem, có khi 500-700 người. Có vùng ác liệt quá chỉ có mấy chục người, nhưng vẫn phải phục vụ.

Ông kể: "Có lần, Tết năm 1973, hai bên thống nhất ngưng tiếng súng để người dân ăn Tết. Chúng tôi tranh thủ vào đồn Rau Dừa, xã Hưng Mỹ gặp tên đồn phó (đồn trưởng không có nhà) nói nó cho đội chiếu bóng vào sát dồn để chiếu cho người dân xem. Và ra điều kiện, “khi các anh ra coi tuyệt đối không được mang súng và chất nổ”. Nó đồng ý. Bọn lính cũng ra mấy chục đứa để coi phim. Vậy cũng coi là mạo hiểm, nhưng thành công, an toàn. Rồi đội còn cử người vào đồn Thứ Vải và một số đồn khác để thương lượng đưa máy chiếu vào gần đồn phục vụ đồng bào, và cả bọn lính".

Nhiều lần như thế, sự việc đến tai tỉnh trưởng Cà Mau, hiểu được sức mạnh tuyên truyền, cổ vũ tinh thần chiến đấu của phim ảnh, hắn tìm mọi cách để tiêu diệt đội chiếu bóng. Căn cứ ở đầm Thị Tường chúng đánh bom, càn quét nhiều lần. Thậm chí, chúng treo giá rất cao cho ai tiêu diệt được đội chiếu bóng. Nhưng vì tinh thần cảnh giác cao và được tỉnh quan tâm, Nhân dân thương yêu, che chở nên đội vẫn tồn tại.

Tuy vậy, từ năm 1966 đến ngày giải phóng, đội đã hy sinh 5 đồng chí, do trên đường hành quân bị giặc phục kích. Đội chiếu bóng thường có 6-7 người, mỗi lần có người hy sinh thì phải tìm người tập huấn nghiệp vụ bổ sung vào. Không chỉ huấn luyện bổ sung cho đội chiếu bóng của tỉnh, ngày 28/12/1973, đội còn thành lập thêm 1 đội chiếu bóng mới, chi viện cho Bạc Liêu và ông Hai Cương (Đội trưởng) được phân công phụ trách đội Bạc Liêu.

Có một kỷ niệm mà đến giờ ông Bảy Huệ vẫn nhớ, nó như chất xúc tác cho công việc và cũng thể hiện sự khát khao hưởng thụ văn hoá của người dân. Đó là, một lần vào mùa hạn, đội về huyện Thới Bình chiếu phim bên này sông Trẹm. Khoảng hơn 9 giờ tối, khi buổi chiếu phim kết thúc, đang loay hoay thu dọn máy móc thì thấy có 6-7 người quần áo ướt lem nhem, từ bên kia bờ sông Trẹm lội qua. Bà con cho biết, họ ở cách đó đến 8 cây số, nghe nói có chiếu phim, rủ nhau lội bộ qua các cánh đồng để đến xem. Vì trễ quá, đợi hoài không có xuồng để quá giang qua sông, họ đành lội qua dòng sông Trẹm.

Trước tình cảnh vậy, đội xin ý kiến Đảng uỷ xã, được trả lời vùng đó vào buổi khuya thường bị pháo bắn không thể chiếu tiếp được. Cuối cùng đành hỏi bà con ở ấp nào để sắp xếp về phục vụ sau. Và đến mấy tháng sau, đoàn đã trở lại như lời hứa.

Cũng chuyện khát khao được xem phim ảnh và tình cảm người dân với tỉnh kết nghĩa, tôi được bà Út Khâu (Nguyễn Tấn Khâu), quê ấp Kênh 8, xã Tân Bằng (trước giải phóng thuộc xã Biển Bạch), huyện Thới Bình, kể rằng: Năm 1967, khi đội chiếu bóng về chiếu tại kênh Một Rưỡi, xã Biển Bạch Đông, người dân kéo đi coi phim trống cả các xóm, sân bãi đông nghẹt người. Những nam nữ thanh niên ở xã xa cũng lén cha mẹ đi coi (vì cha mẹ không cho đi, sợ bị máy bay bỏ bom). Lúc đó bà là Bí thư Chi đoàn ấp Kênh 8, cả chi đoàn đều kéo nhau đi coi phim hết. Bà còn nhớ, bộ phim được xem là "Chung một dòng sông" mà theo bà hay xuất sắc.

Để buổi chiếu phim an toàn, có mấy anh bộ đội canh gác cách đó cả cây số. Máy phát điện đặt rất xa nơi chiếu, kéo dây lại; hễ có báo hiệu của bộ đội là tắt máy liền. Sau đó, các xã đoàn đều có hành động thiết thực đáp lại tình cảm bà con tỉnh Ninh Bình trước việc tặng máy chiếu, một món ăn tinh thần vô giá này (bà nhớ mang máng hình như theo chỉ đạo của Huyện đoàn Thới Bình).

“Bí thư Xã đoàn xã Biển Bạch là anh Sáu Liệt sau khi bàn bạc đã thống nhất thêu khăn tay gửi tặng bà con. Anh Sáu Mừng và anh Bảy Kịch là cán bộ Tuyên huấn của xã ngồi nghiên cứu viết gì cho ý nghĩa. Cuối cùng sáng tác ra 2 câu thơ: “Tình sâu biển cả cũng sâu/ Biển Bạch ý một càng lâu càng bền”. "Ý một" là đồng lòng, chỉ duy nhất một ý. Sau đó việc thêu khăn tay được triển khai rộng khắp các chi đoàn, chẳng mấy chốc Xã đoàn nhận về được 32 cái khăn tay. Đường kim mũi chỉ khéo léo, 2 câu thơ được bố trí dọc 2 cạnh khăn, góc bên kia là cặp bồ câu biểu hiện hoà bình, trông thật đẹp và ý nghĩa”, cô bí thư chi đoàn ngày nào, nay là cụ bà tuổi ngoài thất thập, như đang sống lại thời kỳ đầy sôi động, nhiệt huyết.

Bà Út Khâu cho biết, 2 câu thơ này sau cũng được sử dụng phổ biến khi viết thư cho người thân, hay ghi vào đầu các cuốn sổ tay, thể hiện tấm lòng, tình cảm trước sau như một của người dân Biển Bạch. Cũng theo bà Út Khâu, còn nhiều lắm những tình cảm đẹp mà người dân Thới Bình nói riêng và người dân Cà Mau nói chung dành cho tỉnh kết nghĩa Ninh Bình trong những năm tháng ấy.

Trở lại câu chuyện của ông Bảy Huệ, tôi tò mò về lời hứa với vợ con, ông bộc bạch: "Sau giải phóng, cũng có ý định trở về quê hương, bởi cũng hơn 9 năm kẻ Bắc người Nam ngóng chờ khắc khoải. Nhưng lãnh đạo Tuyên huấn tỉnh và ngành văn hoá bảo xem lại, bởi tỉnh đang cần người có chuyên môn, đưa gia đình vào sẽ phù hợp hơn. Vậy là năm 1979, cả gia đình đoàn tụ ở Cà Mau".

Nhìn lại cả quá trình công tác: Uỷ viên Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ Cà Mau, Bí thư Chi bộ Đội Chiếu bóng Cà Mau - Ninh Bình; Giám đốc Công ty Phát hành phim, chiếu bóng Minh Hải; và trước khi nghỉ hưu là Phó ty Văn hoá Thông tin Minh Hải, ông Bảy Huệ rất tự hào vì những cống hiến của mình cho quê hương kết nghĩa và cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


Cà Mau và Ninh Bình còn có rất nhiều phong trào, công trình, địa danh gắn tên 2 quê hương kết nghĩa. Tại Cà Mau, có Trường Nội trú Cà Mau - Ninh Bình; sau giải phóng có rạp chiếu bóng Ninh Bình… Tại Ninh Bình, ngoài chiến dịch Hòn Khoai - Quang Trung và một số phong trào, chiến dịch thi đua khác, còn có rạp chiếu bóng Kim - Mau, có đê Năm Căn, cống Biện Nhị, cầu Chà Là… Sau giải phóng Cà Mau, Bạc Liêu đón tiếp hàng ngàn cán bộ, đồng bào Ninh Bình được điều động, tăng cường vào công tác và phát triển kinh tế. Năm 2016, Cà Mau và Ninh Bình ký kết chương trình hợp tác phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2017-2022, càng tiếp tục phát huy tình đoàn kết keo sơn gắn bó, cùng nhau phát triển.


 

Huyền Anh

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.