ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 27-4-25 13:01:03
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Những kỹ năng sống thời chiến

Báo Cà Mau Ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc “chiến tranh phá hoại” bằng không quân, hải quân đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa hòng ngăn chặn sự chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam.

Ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc “chiến tranh phá hoại” bằng không quân, hải quân đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa hòng ngăn chặn sự chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam.

Năm đó, tôi học lớp hai trường làng. Tám tuổi đầu nào có biết gì; cứ thấy các cô, các chú dân quân cùng người dân đào hào giao thông, đào hầm trú ẩn là mừng lắm; cứ chạy theo reo hò ầm ĩ! Vì sao? Vì chúng tôi được dịp chạy trong hào giao thông hun hút, ngoằn ngoèo; luồn qua vườn mít, vườn chuối của mọi nhà trong xóm mà ngày thường không dễ gì “đột nhập” bởi hàng rào tre gai đan kín.

Minh hoạ: Minh Tấn

Mục tiêu đánh bom, bắn phá của máy bay Mỹ là sân bay, bến cảng, kho tàng, quốc lộ, cầu cống, bến bãi… Những nơi nào nghi ngờ có doanh trại quân đội, có kho tàng đều bị bom đạn chà đi xát lại không biết bao nhiêu lần. Lèn Voi quê tôi (núi đá có hình như con voi, thuộc xã Phúc Sơn, Anh Sơn, Nghệ An) có “Xưởng rèn 3/2”; thung Gáo tại Ðồng Trương (xã Hội Sơn, Anh Sơn, Nghệ An) có Nhà máy điện Vinh (còn gọi là Nhà máy 247), nhà máy xi-măng 12/9 nằm trong hang đá, sân bay Dừa nằm trong hang lèn Ong cũng không thoát khỏi bom đạn ngày ngày dội xuống.

Vấn đề đặt ra là làm sao để có được những kỹ năng sống, phù hợp với tình hình thời chiến để vừa đảm bảo việc học hành, vừa đảm bảo an toàn trong cảnh bom rơi đạn nổ.

Trước hết là những kỹ năng về phòng gian bảo mật mà bất cứ học sinh nào, từ cấp 1 (lớp 1, 2, 3, 4), cấp 2 (lớp 5, 6, 7) đến cấp 3 (lớp 8, 9, 10) đều phải tuân thủ. Chúng tôi được thầy, cô chủ nhiệm căn dặn: nếu có người lạ hỏi bất cứ điều gì đều phải thực hiện “ba không” (không nghe, không thấy, không biết). Thí dụ: Người lạ hỏi: “Cháu có thấy bộ đội đóng quân ở gần đây không?” thì trả lời “Cháu không thấy, cháu không biết !”.

Bởi những tháng năm chiến tranh, kẻ địch thường tung thám báo, gián điệp do thám khắp nơi; sau đó bí mật chỉ điểm cho máy bay bắn phá. Gặp người lạ vô làng hoặc dọc đường là phải nhanh trí; một vài bạn tìm cách lân la hỏi chuyện, giữ chân “khách”; còn một vài bạn bí mật chạy đi báo cho công an, dân quân gần nhất biết để xử lý. Rất nhiều trường hợp, nhờ sự nhanh nhạy, mưu trí của học sinh mà ta đã bắt được nhiều kẻ gian đang tìm cách moi bí mật quân sự qua trẻ nhỏ mà chúng nghĩ rằng lứa tuổi ngây thơ, thật thà này dễ dụ dỗ, khai thác…

Bên cạnh đó là kỹ năng phòng tránh bom đạn, vì máy bay Mỹ đánh phá trong khu vực bất cứ lúc nào. Nếu ở giữa đồng trống, không có hầm hào; khi nằm xuống thì phải nằm ngửa. Vì sao? Một là dễ quan sát hướng bay của máy bay để phán đoán nó đánh bom khu vực nào. Hai là quan sát bom rơi. Nếu trái bom có hình thon dài bên trái hoặc bên phải thì nó rơi khá xa. Nhưng nếu thấy trái bom hình tròn, lúc đầu như trái cam, từ từ to lên là bom sẽ rơi rất gần. Lúc này, không chạy nữa vì rất dễ trúng mảnh bom. Bom nổ gần và hơi bom mạnh có thể hất tung người lên và dập xuống. Nhờ nằm ngửa mà chúng ta không bị chấn thương tim phổi, nên xác suất an toàn cao. Khi ngồi hầm, 2 tay đan vào nhau, ép 2 tay để trên đầu. Trường hợp bom vùi, hầm sập; khi dân quân đào hầm để cứu thì lúc này họ sẽ thấy đôi tay trước để xử lý khâu tiếp theo.

Song song đó, kỹ năng xuống hầm tránh bom luôn được chú trọng để đảm bảo an toàn tuyệt đối. Nếu đang ngồi học, có báo động máy bay, nhất thiết phải theo sự chỉ dẫn của thầy, cô giáo. Thông thường các bạn nữ chạy xuống trước, các bạn nam chạy xuống sau. Thầy, cô sẽ hướng dẫn lớp trưởng, lớp phó đi sau cùng nhớ đậy cửa hầm lại.

Nếu đang đi trên đường, có báo động thì cần phải quan sát nhanh trước khi nhảy xuống hầm. Nhanh chóng nhìn xuống, nếu có rắn, chuột thì phải tìm cách bắt lên vì ban đêm đi tìm mồi, những “vị khách không mời” này thường bị lọt xuống. Có những trường hợp do thiếu quan sát, khi có bom nổ gần, có người hấp tấp nhảy xuống hầm giẫm phải rắn độc và bị rắn cắn chết.

Cách đan lá nguỵ trang cũng cần phải học, phải biết tự làm. Làm 3 vòng tròn bằng nan tre xếp thứ tự nhỏ bên trong, lớn bên ngoài. Ở giữa là 2 cây bắt chéo, tạo khe hở để mình giắt lá vào. Có tết dây đeo vào vai bằng dây chuối ngự (rất bền) hoặc dây đay. Lá nguỵ trang sử dụng là các loại lá dừa, lá đủng đỉnh vì có màu xanh, bền hơn các loại lá khác. Vì thế, khi có người cha công tác từ phía Bắc trở về Khu 4 - nơi đạn bom khốc liệt ngày đêm - đã ngỡ ngàng trước những “kỹ năng” của đứa con gái thân yêu vừa lên tám, lên mười:

“Cha về rồi đây con

Cha nhìn con bỡ ngỡ

Con đan lá nguỵ trang

Con che đèn đánh lửa

Con đưa em xuống hầm

Biết xoay lưng chắn cửa

Ai dạy con bao giờ

Mà quá chừng ý tứ

Ôi con tôi, con tôi”

(Về hoả tuyến thăm con - Bằng Việt).

Hồi đó, có một quy định rất nghiêm là không được tò mò, đùa nghịch với các loại vật liệu nổ, đặc biệt là những trái bom bi chưa nổ. Trái bom bi mẹ lớn bằng chiếc xuồng ba lá (rộng khoảng 8 tấc, dài khoảng 2 thước) chứa từ 300 đến 500 trái bom bi con. Trong mỗi trái bom bi con chứa từ 300 đến 500 viên bi thép nên tính sát thương rất cao.

Trái bom bi mẹ khi máy bay ném xuống sẽ tự nổ cách mặt đất khoảng 500, 600 thước và bung ra hàng trăm quả bom con trên diện tích rộng. Khi rơi xuống đất, đủ vòng xoay thì bom nổ, bắn ra những viên bi thép, gây sát thương. Nhưng cũng có những quả chưa xoay đủ vòng nên chưa nổ (chứ không phải không nổ) và nếu gặp thấy, cần phải báo dân quân, xã đội tìm cách phá huỷ, không được tự ý cầm ném nghịch nhau, rất nguy hiểm.

Thời đó, hầu hết học sinh ở trọ vì xa nhà khoảng 10 cây số. Hơn nữa, dọc đường số 7 thường có nhiều cầu cống, bến phà, trận địa pháo, nhà máy… đều là những trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ. Vài tuần đi bộ về 1 lần lấy gạo độn bắp, khoai lang, khoai mì… làm thức ăn.

Chúng tôi phải tự chăm sóc bản thân, tự đặt thời gian biểu tự học, tự biết nhuộm áo thành màu xanh theo quy định. Muốn có áo màu xanh, vào rừng chặt vỏ cây bá chỉ (là 1 cây thuốc nam) về nấu lên và cho áo vào. Ðem ra giũ phơi khô và tiếp tục làm như vậy 3 lần là sẽ có chiếc áo màu xanh thơm mùi thuốc nam khá bền màu.

Mặt khác, 3 năm học trường cấp 3 Anh Sơn (Nghệ An) thì chúng tôi dời trường cả 3 lần. Năm học 1971-1972, trường đóng trên địa bàn xã Long Sơn; năm học 1972-1973, dời về xã Thạch Sơn và năm học 1973-1974, trở lại xã Long Sơn nhưng điểm Cồn Phường, nằm sát đường số 7.

Chúng tôi phải đào hào giao thông, dựng hầm Triều Tiên (hầm như căn nhà nhỏ nửa chìm nửa nổi, vách hầm dày khoảng nửa mét, chứa được từ  10 đến 12 người trú ẩn). Hầu như buổi chiều nào cũng có lao động đào hào, đào hầm. Các tổ phân nhau trực nhật, đi học sớm để làm vệ sinh hầm hào; quét dọn sạch sẽ và bắt lũ chuột, rắn, ếch nhái rớt xuống…

Những tháng ngày đi học thuở ấy, dù sống trong hoàn cảnh chiến tranh, nhưng vẫn luôn vang lên tiếng hát, tiếng cười vui vẻ. Cuộc sống thời chiến rèn luyện cho chúng tôi tính khẩn trương, nhanh nhẹn; sẵn sàng đối mặt với mọi hiểm nguy. Cuộc sống thời chiến rèn luyện cho chúng tôi biết lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống. Có thể nói hồi ấy chúng tôi nhờ cuộc sống thời chiến khốc liệt nên khôn trước tuổi mà trưởng thành trước tuổi.

Ngày nhập ngũ cũng là ngày vừa buông cây bút, cầm khẩu súng lên đường. Vào bộ đội, môi trường sống chiến đấu, chúng tôi cứng cáp hơn lên. Chuyện đào hầm, hào với chúng tôi không thành vấn đề vì đã quen rồi. Gian khổ, thiếu thốn, vất vả, thử thách đều có tinh thần chịu đựng cao và vượt qua tất cả.

Viết lại vài dòng về những kỹ năng thời chiến để các bạn trẻ hiểu thêm về những năm tháng hào hùng của đất nước. Việc rèn luyện kỹ năng sống là hết sức cấp bách và hết sức cần thiết cho các bạn trẻ khi đứng trước cửa ngõ cuộc đời. Những kỹ năng sống thời chiến đã giúp thế hệ chúng tôi biết sống, biết vượt lên nghịch cảnh để học tốt, rèn luyện tốt, trở thành người có ích cho cộng đồng, cho xã hội./.

Lê Ðức Ðồng

50 năm - Bản hùng ca bất diệt

“Đại thắng mùa xuân năm 1975 là bản anh hùng ca bất diệt, là chiến công vĩ đại nhất trong lịch sử hào hùng dựng nước và giữ nước của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Chiến thắng đó đã chấm dứt hơn 100 năm đô hộ, xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc”, đồng chí Nguyễn Hồ Hải - Bí thư Tỉnh Uỷ nêu tại buổi Họp mặt Kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 26/4.

Nơi nhắc nhớ, tri ân những anh hùng

Ðối với người dân ở thị trấn Rạch Gốc, huyện Ngọc Hiển cũng như người dân Cà Mau, Di tích Bến Vàm Lũng là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống, cũng là nơi thể hiện lòng tri ân những người anh hùng hiên ngang mở đường, góp sức làm nên những chiến công hiển hách. Ðể ngày nay, trước thời khắc đón nhận Bằng xếp hạng Di tích Lịch sử Quốc gia đặc biệt Ðường Hồ Chí Minh trên biển, người dân Cà Mau hướng về đây với cảm xúc tự hào và lòng biết ơn sâu sắc.

Về nơi con tàu đầu tiên cập bến

Những ngày tháng Tư lịch sử này, giữa niềm vui chung hướng tới kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, lòng người dân Rạch Gốc - Tân Ân lại rộn ràng hơn, bởi cái tin bến Vàm Lũng chuẩn bị đón nhận bằng Di tích Quốc gia đặc biệt. Với họ, những con người của vùng đất đã góp phần cùng Phan Ngọc Hiển làm nên Khởi nghĩa Hòn Khoai lịch sử năm 1940 này, ký ức một thời từng gắn bó ruột rà, máu thịt với Ðoàn 962 như sống dậy, đằm thắm yêu thương, chen lẫn tự hào.

Ðời người chỉ sống một lần

Ông Ba Lành (Trần Ngọc Lành, sinh năm 1942, ngụ ấp Rạch Lăng, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời), thương binh 4/4, tâm tình rằng: “Tôi may mắn còn sống, đó là hạnh phúc lớn lao vì còn được tận hưởng thành quả hoà bình, thống nhất, những điều mà nhiều đồng chí, đồng đội khác không có được”...

Tri ân miền Ðất thép

Mỗi “địa chỉ đỏ” trên mảnh đất hình chữ S đều gắn liền với sự kiện, mốc son lịch sử trong quá trình đấu tranh của quân và dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây không chỉ là nơi giáo dục truyền thống cách mạng dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu nước cho lớp lớp thế hệ mai sau, mà còn thể hiện trách nhiệm, lòng biết ơn của thế hệ hôm nay với những hy sinh to lớn của cha ông cho nền độc lập, tự do của dân tộc.

Trang sử Cà Mau thời kháng chiến năm 1973

Sau Hiệp định Paris năm 1973, về mặt đấu tranh công khai, Ban Liên hợp quân sự 4 bên khu vực 4 (Quân khu 9), do đồng chí Hoàng Hà làm Trưởng ban, đồng chí Phạm Văn Liêm làm Phó ban, Tổ liên hợp Cà Mau do đồng chí Tống Kỳ Hiệp và đồng chí Trịnh Thành Kế phụ trách đã đấu tranh chống lại sự vi phạm Hiệp định của địch trong khu vực. Ta buộc địch công nhận vùng tự do của ta ở Cà Mau và đã thực hiện việc trao trả tù binh ở Kinh Ba, xã Quách Phẩm, huyện Ngọc Hiển (Tư Kháng), Ðầm Dơi ngày nay.

Về “Đất thép thành đồng”

Thiết thực các hoạt động chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025), kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931-26/3/2025), ngày 30/3, đồng chí Nguyễn Hồ Hải, Bí thư Tỉnh uỷ, cùng đoàn cán bộ Tỉnh đoàn đã có chuyến hành trình giáo dục truyền thống, về nguồn tại "Ðất thép thành đồng": Củ Chi - TP Hồ Chí Minh.

“Chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú - Dấu xưa một thời

Trong hành trình tìm về quá khứ, có những việc tuy ngoài sách sử, nhưng lại đậm sâu trong ký ức nhiều người. Ðó cũng là câu chuyện về “chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú, nay thuộc ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước.

Những ngày tháng Ba của mùa Xuân đại thắng

Nửa thế kỷ đã qua kể từ mùa Xuân đại thắng 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam sum họp một nhà, đất nước thống nhất, kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến của dân tộc chống lại đế quốc sừng sỏ và bè lũ tay sai. Tháng 3/1975 là “đêm trước” của ngưỡng cửa chiến thắng. Cục diện chiến trường chuyển biến mau lẹ; không khí cách mạng dâng cao sục sôi; cùng với đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo bằng tất cả ý chí, niềm tin, sức mạnh của Đảng ta, để toàn dân tộc cùng nhau kề vai chung sức, chớp lấy thời cơ, làm nên một chiến thắng vang dội, hào hùng, bất tử.

Thân thương hai tiếng Cà Mau

Cà Mau không chỉ là điểm cuối của đất nước, nơi ai cũng mong một lần được ghi dấu bước chân mình tại cột mốc toạ độ, mà còn là vùng đất để lại trong tim nhiều người những tình cảm khó quên.