(CMO) Hai giờ đêm, bất kể trời mưa hay cái lạnh của những ngày trở đông thấu xương thấu thịt, bà Lan cũng khoác vội thêm chiếc áo bên ngoài và lên xe ôm qua Cảng cá Cà Mau để mua hàng về bán. Anh xe ôm là người cùng xóm, thấy hoàn cảnh bà nghèo khổ nên từ nhà bà trên đường Trương Phùng Xuân, Khóm 2, Phường 8 (cặp cầu Gành Hào) qua Cảng cá chỉ lấy mỗi bận 10 ngàn đồng. Công việc bán cá này bà làm đều đặn gần chục năm nay để nuôi hai con người, một bị chất độc da cam ngu ngơ, một thần kinh bất ổn. Mà lạ một điều là họ có ruột rà, máu mủ gì cho cam... Bà nói, mắc nợ ân tình…
Khi sinh đến người con thứ tư cũng là gái, mẹ của cô bé thuộc gia đình người Hoa khá giả ở Kiên Giang (kinh doanh cửa hiệu thuốc bắc) nghe nói bị bệnh gì đó nên tìm người nuôi hộ bé. Có một phụ nữ nghèo tuổi độ trung niên ở Rạch Sỏi tới làm “ứng viên”. Thoả thuận xong, bà bồng cô bé về nhà chăm sóc. Cứ mười bữa, nửa tháng thì bồng bé đến cho mẹ ruột thăm một lần.
Nuôi được hơn ba năm, nhà chủ yêu cầu nhận lại bé. Có lẽ vì mến tay mến chân hay có ẩn khuất gì đó, bà vú nuôi không trả con cho mẹ mà... bồng bé bỏ trốn. Mấy năm sau, bà đưa bé cùng về sống với người con gái làm trại xuồng ở ấp Đầu Sấu, xã Tân Hưng Tây, huyện Cái Nước (nay thuộc xã Tân Hải, huyện Phú Tân).
Sự xuất hiện bất ngờ của cô bé khiến gia đình chủ trại xuồng bối rối. Nhưng rồi mọi việc cũng đâu vào đó, cô bé được sắp đặt làm con nuôi bà chủ trại xuồng và gọi vú nuôi bằng bà ngoại, được lấy họ theo các con bà. Tính tuổi tác, cô bé lớn hơn nên được làm chế Hai. Tên họ đầy đủ của cô là Lê Thị Lan.
Cần mẫn, chịu khó, biết chăm lo đùm bọc em út nên cô bé Lan được gia đình mẹ nuôi rất thương mến. Hồi đó, chị em cô bé Lan cùng đi học chung trường làng. Theo nếp, hễ trò không thuộc bài thì hình phạt của thầy cô giáo là đánh thật đau. Vậy là mỗi lần các em làm bài, trả bài không được, chế Hai Lan đều giơ tay đứng lên lễ phép chịu đòn thay. Thương đứa học trò học giỏi lại có đức tính hy sinh, các thầy cũng không nỡ đánh.
Câu chuyện trên xảy ra đã lâu, giờ cô bé Lê Thị Lan đã là bà già 70, tóc điểm gió sương. Bà tự hào: “Gia đình mẹ nuôi tôi theo cách mạng. Mẹ tôi là thương binh 4/4. Hồi đó bà từng đóng góp mười mấy chiếc xuồng be chín, be mười và 20 ngàn đồng để đánh giặc Bình Hưng. Trại xuồng mẹ nuôi tôi có tên Huỳnh Thị Lệ, người ta hay gọi trại xuồng Sáu Gà, kêu theo tên ba nuôi tôi”.
Ngừng một lúc, có lẽ sợ người nghe chưa đủ tin, bà nói tiếp: “Chú Chín Ngôn (Trần Văn Ngôn, Trưởng Ban An ninh xã Tân Hưng Tây, sau này được phong Anh hùng LLVTND - PV) là người đứng ra ký nhận xuồng và tiền. Giấy tờ tới bây giờ gia đình còn giữ”.
Bà Lan hết lòng chăm sóc người cháu nuôi (không ruột rà máu mủ) bởi cái nợ ân tình. |
Nhắc lại chuyện xưa, dường như một thời ký ức lại ùa về với bà. Hồi đó có một cán bộ mà bà và các em kêu bằng Chú Chín thường xuyên ngủ trong nhà mẹ nuôi. Chú Chín đưa người về họp hội thì bà và các em canh gác. Chú Chín cần liên lạc thư từ thì bà và các em đi liên lạc. “Nhiều lần tôi canh cho mấy chú họp. Giặc tới bên sông hay đầu xóm, tôi nhanh chóng chạy về báo. Mấy chú vừa rút đi là giặc tới. Nó bắn sáng nước hết, may mà mấy chú không sao”, bà nhớ lại.
Sau này, khi lớn hơn, việc cơm nước cho các chú, việc đưa thư từ, tiếp tế trong cứ, nguỵ trang đưa các chú qua đồn bót... trở thành việc làm thường xuyên của bà. Nhờ sự mưu trí, sáng tạo, dũng cảm mà mọi chuyện được giao bà đều thực hiện trót lọt.
- Lúc đó cô có sợ không?
- Cũng có sợ, nhưng mình nghĩ chuyện canh gác cho các chú họp hội, chuyện đưa các chú đi, chuyện chuyển thư từ... là chuyện lớn, chuyện quan trọng nên dẹp nỗi sợ sệt, chỉ biết bằng mọi cách phải cố gắng hoàn thành...
Lại sợ người đối diện không tin, bà lấy từ tủ ra tập giấy, trong đó có tờ xác nhận quá trình tham gia công tác cách mạng của mình. Bà nói, bà đang bị bệnh tiểu đường, địa phương kêu làm thủ tục để xét hưởng hỗ trợ.
- Cô có làm báo công để được tặng thưởng huân chương, huy chương kháng chiến không? Rồi việc gia đình đóng góp tài sản cho kháng chiến có được khen thưởng không?
- Không. Tôi nghe nói làm báo công phức tạp lắm. Mình chữ nghĩa ít, lại không rành đường đi nước bước, bao nhiêu yêu cầu, bao nhiêu thứ giấy tờ mình đâu biết đường mà làm. Rồi còn phải lo làm nuôi các cháu nữa, sao mà đi được...
Rồi bà thở dài:
- Phải chi mấy chú hồi đó mình giúp giờ làm giúp lại mình chuyện báo công này thì dễ hơn...
Đất nước thống nhất, cuộc sống còn đầy khó khăn, là chị cả bao nhiêu việc phải gánh vác, bà dường như không chú ý tới bản thân. Cứ lao vào lo chuyện làm ăn của gia đình và chăm lo cho em út, để rồi người phụ nữ 70 tuổi còn phảng phất nét đẹp thời con gái này đã để tuổi xuân trôi đi tuồn tuột.
Trong số các anh chị em con mẹ nuôi, người em út tên Lê Thị Huệ có hoàn cảnh đặc biệt nhất. Bà Huệ có 5 người con thì 2 người không bình thường (một bị chất độc da cam, một tâm thần). Vậy là bà Lan dồn tâm dồn sức cùng em gái lo cho các cháu. Gia đình em gái chuyển ra TP Cà Mau sống đã hơn 20 năm, cũng ngần ấy thời gian bà có mặt để cùng chăm sóc.
Chuyện làm ăn thất bại, bà Huệ vướng nợ nần phải rời xứ đi làm thuê mong có tiền xoay trở. Nhưng tuổi cao, sức lực có hạn, công việc làm thiếu ổn định nên bà Huệ chưa có điều kiện trở lại quê nhà. Vậy là gần chục năm nay, bà Lan phải một mình oằn vai vắt sức gánh hết cái gia đình “đầy hoàn cảnh” của em mình là bà Huệ.
Phó Khóm 2, Phường 8 Huỳnh Thanh Sơn kể, ngay cái nhà đang ở em bà cũng đã cầm cố. Người ta đòi lấy nhà hoài nhưng địa phương can thiệp để cho bà và các cháu có nơi trú ngụ. Phường cũng xét chứng nhận hộ nghèo cho gia đình bà để có những hỗ trợ phù hợp. Ai cho quà gạo gì, khóm cũng đều ưu tiên xét cấp cho gia đình bà. 2 trong số 3 người con khoẻ mạnh của bà Huệ, cũng nhờ sự động viên, hỗ trợ tiếp sức của Hội Khuyến học phường, địa phương tạo điều kiện cho vay vốn sinh viên, cùng với ý chí học hành, tự lập của các em mà một đã tốt nghiệp đại học, một đang học năm cuối ở TP Hồ Chí Minh.
Hiện tại, mỗi tháng khoản hỗ trợ bệnh tiểu đường của bà, tiền chất độc da cam của các cháu cộng lại được vài triệu, không đủ lo liệu cho 2 con người bệnh tật nên bà phải thức đêm hôm mua cá bán để kiếm thêm chút tiền xoay xở.
Nhìn người phụ nữ gầy còm, lam lũ, tóc đã pha sương mà còn phải nặng gánh cơm áo gạo tiền, lo từng miếng ăn, tắm giặt, vệ sinh cho 2 con người tuổi đã ngoài 30 nhưng vô thức (lại không hề ruột thịt), lòng chợt thấy vừa cảm phục, vừa xót xa.
“Sau này cô có thông tin gì về gia đình mình không?”, tôi hỏi. Bà trần tình: “Có. Ngoại nuôi có cho biết. Tôi cũng có về thăm. Trước khi mất, ngoại nuôi có nói: “Con à, con về với mẹ ruột đi, cha mẹ con giàu có. Con theo tụi này khổ lắm”. Cha mẹ ruột lúc còn sống cũng kêu, anh chị em cũng kêu. Gia đình anh chị em tôi ai cũng khá giả, nhiều người định cư ở nước ngoài… Nhưng tôi vẫn không muốn về, không bỏ mấy đứa cháu này được. Trước đây chúng có mẹ lo mà mình còn không nỡ rời xa chúng, giờ tình cảnh này mình bỏ ai lo?!...”.
- Có khi nào cô nghĩ giận ngoại nuôi không, bà đã bồng cô đi, lẽ ra cô được ở với cha mẹ ruột mình và sống đời sung sướng?
Bà mau miệng trả lời:
Không. Tôi nghĩ chắc là cái số của mình. Tôi nghe kể, lúc đó ngoại nuôi cũng rất nghèo, khi bồng tôi đi bà phải vừa trốn, vừa làm mướn để có tiền nuôi tôi. Mà hồi đó bà cũng đã lớn tuổi, con cái đã riêng tư, chớ đâu phải không có con. Ở tuổi đó mà phải cực khổ nuôi một đứa trẻ không ruột thịt thì phải xuất phát từ lòng yêu thương lắm mới làm được.
Bà nói tiếp: "Sau này khi sống với mẹ nuôi, mọi người trong gia đình cũng rất thương tôi, không có sự phân biệt. Cái tình này sao tôi quên được. Nợ ân tình này khó trả lắm. Tôi coi các cháu như con mình, làm gì được cho các cháu thì làm. Tôi cứ cầu nguyện phật trời cho mình khoẻ mạnh để lo cho chúng, chớ mình có chuyện gì thì các cháu biết làm sao…".
Thấy trên đầu giường bà có xấp giấy đóng lại, có bài thơ, tôi hỏi, bà cười ngượng ngùng bảo người ta cho, để đọc cho con cháu nghe. Rồi bà cầm lên và đọc:
“Nuôi con trả nghĩa cho đời
Chỉ mong thấy được những lời thân thương
Cuộc đời vất vả trăm đường
Đắng cay mẹ chịu, ngọt nhường phần con...”
Những câu thơ như tiếng lòng bà, nghe mà thấy xốn xang.
“Tôi nói với các cháu, sau này tôi mất khỏi bận lòng cúng kiếng gì hết, để tôi tự kiếm ăn. Các cháu lo làm việc, xây dựng cuộc sống tốt đẹp vậy là tôi mừng rồi”, bà nói, rồi nở nụ cười mơ hồ nghĩ về tương lai tươi sáng của các cháu.
Một người phụ nữ đôn hậu, chịu thương chịu khó, luôn hết lòng vì người khác. Đặc biệt, dù ít chữ nghĩa, nhưng bà luôn coi trọng cái nghĩa, cái tình, nhất là những người mình chịu ơn cưu mang, nuôi dưỡng. Nghĩ điều này, tôi chợt nhớ đến ước mong “phải chi...” của bà về việc những người được Nhân dân chở che trong kháng chiến.
Chợt nhớ đến chuyện cứ trăn trở trong lòng. Tôi từng gặp không ít người ngày trước có công giúp đỡ cách mạng nhưng giờ làm báo công rất trầy trật. Họ chữ nghĩa ít, không rành chuyện giấy tờ, và nhiêu khê nhất là chuyện đi tìm kiếm những người mình từng giúp đỡ để nhờ xác nhận công trạng. Có người đã mất, người còn. Nhưng người còn cũng ở đâu đó quá mênh mông, không dễ lần dò manh mối. Vì vậy mà không ít người đành bỏ cuộc.
Chợt ước mong, phải chi có cuộc phát động nào đó về việc kêu gọi những người ngày xưa được Nhân dân giúp đỡ quay về ký xác nhận thành tích, hướng dẫn bà con làm thủ tục báo công. Hoặc Đảng, Nhà nước nên có quy định bắt buộc việc này.
Đành rằng đất nước giải phóng hơn 40 năm, không ít người trong cuộc đã về với đất. Đành rằng những người giúp đỡ kháng chiến không nghĩ để được trả công… Nhưng, đã có chế độ thì phải làm để bà con bớt thiệt thòi. Nhất là những người hoàn cảnh khó khăn thì tấm huân chương, huy chương, giấy khen cũng là sự động viên; Đặc biệt, những khoản được hưởng từ chính sách hết sức ý nghĩa với họ khi tuổi già, sức yếu, nhiều bệnh tật...
Làm được điều này còn thể hiện đạo lý có trước - có sau; Cũng là phần nào đền đáp cái nợ ân tình, vốn không dễ trả./.
Huyền Anh