ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 23-11-24 19:19:57
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nỗi lòng người lính phương xa

Báo Cà Mau Trong suốt những năm tháng chiến đấu xa quê hương, xa Tổ quốc, những người con của quê hương Minh Hải ngày nào vừa mới đi qua cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chưa được hưởng trọn niềm vui khi đất nước hoà bình, thống nhất, nhiều đồng chí chưa dám nghĩ đến việc lập gia đình và tạo lập cuộc sống riêng tư, thậm chí chưa có dịp về thăm lại quê hương xứ sở, thăm lại bạn bè.

Trong suốt những năm tháng chiến đấu xa quê hương, xa Tổ quốc, những người con của quê hương Minh Hải ngày nào vừa mới đi qua cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chưa được hưởng trọn niềm vui khi đất nước hoà bình, thống nhất, nhiều đồng chí chưa dám nghĩ đến việc lập gia đình và tạo lập cuộc sống riêng tư, thậm chí chưa có dịp về thăm lại quê hương xứ sở, thăm lại bạn bè. Một lần nữa, người lính phải gác lại chuyện riêng tư tiếp tục cầm súng lên đường tham gia chiến đấu bảo vệ từng tấc đất thân yêu nơi biên cương của Tổ quốc ở chiến trường Hà Tiên - Kiên Giang.

Ðến tháng Giêng năm 1979, đáp lời kêu gọi thiết tha của Mặt trận Dân tộc cứu nước Campuchia anh em, họ lại cùng đoàn quân tình nguyện Việt Nam tiến sang giải phóng đất nước và giúp Nhân dân Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng của tập đoàn phản động Pôn Pốt; rồi cũng từ đó, suốt gần 10 năm họ làm nhiệm vụ quốc tế, vừa chiến đấu, vừa giúp bạn trên chiến trường tỉnh Kô Kông.

Minh hoạ: Hoàng Vũ

Suốt những năm tháng xa quê hương ấy, với tinh thần quốc tế cao cả và đứng trên quan điểm “Giúp bạn là tự giúp mình”, hàng ngàn cán bộ chiến sĩ của lực lượng vũ trang Minh Hải (nay là tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu), sẵn sàng chấp nhận những nỗi gian lao, vất vả thiếu thốn mọi điều, cả đến hy sinh tính mạng và mất mát một phần thân thể vì sự bình yên của đất nước Việt Nam, sự hồi sinh của dân tộc Campuchia anh em. Có những đơn vị hành quân truy quét tàn quân địch hay đứng chặn chốt giữa sâu trong các vùng rừng núi đại ngàn, lương thực, thực phẩm rất thiếu thốn, đặc biệt là có lúc thiếu muối ăn trầm trọng. Nhiều đơn vị cử bộ đội về phía sau tải gạo, tải thương, nhiều đồng chí vấp phải mìn và bị địch phục kích hy sinh; bệnh sốt rét rừng cũng từng quật ngã nhiều anh em đang tràn đầy sức trẻ.

Những nỗi gian lao vất vả của người lính ở chiến trường đất bạn trong suốt những năm 80 của thế kỷ XX thì không làm sao nói hết được, nhưng người lính cũng vượt qua tất cả. Duy chỉ có một điều tôi cũng muốn nói ra để thế hệ hôm nay và mai sau hiểu và cùng chia sẻ, cảm thông cho những nỗi lòng của người lính chiến đấu xa quê hương, xa Tổ quốc, đó chính là sự thiếu thốn về tình cảm.

 Vào những năm 80 ấy, mặc dù chiến đấu xa Tổ quốc, nhưng người lính hiểu rằng đất nước ta vừa trải qua 2 cuộc kháng chiến, hậu quả chiến tranh để lại nặng nề, lại bị bao vây cấm vận, đất nước ta lại trong thời kỳ bao cấp, nền kinh tế vô cùng khó khăn, lương thực, thực phẩm thiếu thốn trầm trọng, có lúc cán bộ, công chức và bộ đội phải ăn độn bột mì và cao lương. Trong điều kiện ấy, nhiều đồng chí, anh em chúng tôi có dịp nghỉ phép về thăm gia đình, nhìn thấy cảnh sống khó khăn của cha mẹ, anh em và vợ con thì lòng thật xót xa.

Một vấn đề khác cũng thật tế nhị, rất khó nói ra, đó là nỗi lòng luôn phải chịu sự thiếu thốn tình cảm của hậu phương. Trong những năm chống giặc Mỹ xâm lược, dẫu sao bên cạnh đó cũng có tình cảm của hậu phương, gia đình nhưng sang chiến đấu bên chiến trường Campuchia, đối với anh em cán bộ thì thỉnh thoảng 1-2 năm còn được nghỉ phép về thăm gia đình. Ðặc biệt là số chiến sĩ trẻ thực hiện nghĩa vụ quân sự 3 năm thì không có chế độ nghỉ phép. Nhiều đơn vị đứng chốt giữ giữa rừng sâu không có bóng dáng người dân Campuchia.

Có lần vào cuối năm 1980, khi đơn vị của chúng tôi lên chốt giữ ở vùng Bến Ðá, đồi Không Tên, điểm cao K172, một hôm, Ðoàn Văn công Quân khu 9 sang phục vụ tại Ban Chỉ huy Trung đoàn 20. Ðêm ấy, chỉ có 50% quân số được xem văn công biểu diễn, số còn lại phải làm nhiệm vụ trên các điểm chốt dọc biên giới Campuchia - Thái Lan, không được xem. Sáng hôm sau, được biết đoàn còn lưu lại ở trung đoàn, nhiều anh em ở các chốt điện về đề nghị các chị Thanh Thoảng, Như Nguyệt hát vài câu vọng cổ qua máy bộ đàm vì anh em thèm được nghe giọng ca của con gái nước mình. Trước khẩn cầu tha thiết đó, đơn vị phải mất vài chục lố pin để anh em được nghe giọng ca của ca sĩ từ Việt Nam sang.

Một lần khác, vào dịp cuối năm 1985, đoàn cán bộ phụ nữ tỉnh nhà do cô Út Bình sang thăm và chúc Tết bộ đội. Ðoàn đến thăm và chúc Tết cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 3 đứng chân tại Chikholơ. Ðơn vị đang cử 1 đại đội truy quét địch trong rừng, sáng hôm đó khi nghe tin đoàn Minh Hải đến thăm, Ban Chỉ huy đại đội cho bộ đội băng rừng vượt qua trên 15 km để kịp về đón đoàn đến thăm. Trên đường hành quân về, các chiến sĩ ta hái những cành hoa rừng rất đẹp, khi vừa về đến đơn vị thì đoàn đã đến trước đó khoảng nửa giờ, cô Út Bình đang nói chuyện với anh em trong hội trường, số cán bộ, chiến sĩ vừa mới về đến chạy ào vào hội trường tặng những đoá hoa tươi thắm và ôm hôn thắm thiết cô Út và các cô gái trong đoàn - một cử chỉ thật tình cảm để thoả lòng khát khao vì quá lâu họ mới được gặp người con gái Việt Nam.

Có lẽ các chị, các em cũng hiểu và cảm thông cho người lính sống xa quê nhà. Cũng tại buổi gặp gỡ này, tôi còn nhớ có em gái tên là Ngọc Huệ hát phục vụ cho anh em nghe bài “Nhớ”. Cuối bài hát có câu “Ai nhớ cứ nhớ, ai đi cứ đi, chiến trường súng nổ, thắng giặc lại về...”. Ôi! Giọng hát, lời ca của em sao mà tha thiết quá, làm cho nhiều anh chàng lính trẻ cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ. Sau đó, cơ quan tuyên huấn của Ðoàn 9907 nhờ Ngọc Huệ hát lại bài ca ấy để thu vào băng rồi sang ra mấy chục cuốn để gửi xuống các đơn vị cho anh em nghe...

Ðó là vài câu chuyện về nỗi niềm khát khao cháy bỏng của những người con chiến đấu ở xa quê hương, Tổ quốc. Có lẽ những ai là người trong cuộc mới thấu hiểu và cảm thông cho nỗi niềm ấy. Có thể nói, đó là sự chấp nhận hy sinh không hề nhỏ. Ðến hôm nay, sau hơn 25 năm về lại với quê nhà, sống trong điều kiện đất nước hoà bình, kinh tế đủ đầy, những người lính chúng tôi đã từng trải qua những năm tháng, ở chiến trường đất bạn, vẫn không thể nào quên những kỷ niệm ấy./.

Võ Hà Ðô

Những "ngôi nhà cách mạng"

Thời chiến tranh chống giặc ngoại xâm, Cà Mau là căn cứ địa đặc biệt quan trọng đối với phong trào cách mạng cả nước. Từ thành thị đến làng rừng có rất nhiều địa điểm ghi dấu ấn, nay là di tích lịch sử cách mạng.

Chuyện xin giống cây vú sữa trồng ở Phủ thờ Bác

Tại Phủ thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, xã Trí Lực, huyện Thới Bình (mọi người thường gọi thân thương là “Phủ thờ Bác xã Trí Lực”), hiện có cây vú sữa được nhân giống từ cây vú sữa của má Lê Thị Sảnh (Ấp 10, xã Trí Phải, huyện Thới Bình) gửi Tiểu đoàn 307 mang ra miền Bắc tặng Bác Hồ trên chuyến tàu tập kết năm 1954. Cây vú sữa này cũng đã cho trái từ mấy chục năm qua, khắc sâu thêm tình cảm thiêng liêng của người dân Cà Mau đối với Bác. Thế nhưng, chuyện xin cây vú sữa mang về trồng như thế nào và từ khi nào, cũng là thắc mắc của nhiều người.

Vụ thảm sát Cái Sắn qua lời kể của nhân chứng U100

Ông Phạm Văn Quang (Hai Quang), Chủ tịch Hội Khuyến học huyện Thới Bình, là người tâm huyết với công tác khuyến học, hầu như khóm, ấp nào trong huyện cũng có bước chân ông. Một hôm, ông phấn khởi điện cho tôi: “Chú biết có ông cụ này tuổi hơn 90, còn minh mẫn lắm, biết rất nhiều chuyện xưa của vùng đất Thới Bình, trong đó có vụ thảm sát ở Cái Sắn. Sắp xếp rồi chú đưa đi gặp cụ”.

Việt Nam trân trọng độc lập, phát triển bền vững

Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và toàn thế giới ngày 2/9/1945 đã khẳng định Việt Nam là một quốc gia tự do, độc lập. Ở đó người dân có quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc… Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…

Tự hào 79 mùa thu lịch sử

Cách đây 79 năm, với thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Ðộc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, ngày 2/9/1945 trở thành ngày Tết độc lập đầu tiên của Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh - thời đại của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước với ánh sáng chân lý của sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và Ðảng ta soi đường, dẫn lối. Một mùa thu vạch ngang lịch sử, được lịch sử lựa chọn để đi vào bất tử.

Tri ân hai vị lãnh đạo nghĩa quân

Những ngày tháng Tám lịch sử, chúng tôi có dịp tháp tùng cùng Nhà báo Ðỗ Văn Nghiệp (Sáu Sơn), hiện là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Kể chuyện lịch sử (do Bảo tàng tỉnh thành lập) về thăm, thắp hương tại Khu tưởng niệm hai lãnh đạo nghĩa quân, Ðỗ Thừa Luông - Ðỗ Thừa Tự (toạ lạc tại ấp Bùng Binh, xã Hoà Thành, TP Cà Mau) - Di tích lịch sử cấp tỉnh.

Món quà nghĩa tình tri ân mẹ

Thiêng liêng gì bằng Tổ quốc và mẹ. Mẹ đã cống hiến tuổi xuân, tài sản lớn nhất là chồng, là con cho Tổ quốc. Bằng tấm lòng tôn kính, cảm phục, việc xuất bản quyển kỷ yếu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh Cà Mau” thể hiện trách nhiệm và là món quà mang nặng nghĩa tình của Ðảng bộ và Nhân dân tỉnh Cà Mau gửi đến các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) còn sống, thay nén tâm hương dâng lên những mẹ đã khuất.

Chuyện về liệt sĩ nằm lại vùng đất lửa

Cách đây 5 năm, trong chuyến về nguồn cùng Tỉnh đoàn Cà Mau, đó là lần thứ 3 tôi được đặt chân đến Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn (tỉnh Quảng Trị). Mang theo tấm lòng của người con miền Nam đến thắp nén tâm hương cho những vị anh hùng của Tổ quốc, như một sự tình cờ kỳ diệu, giữa hơn 10 ngàn ngôi mộ liệt sĩ nằm lại ở vùng đất lửa, đoàn chúng tôi bất ngờ tìm được một phần mộ đặc biệt. Ðó chính là nơi an nghỉ của Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Xinh, quê tại xã Tân Lộc, huyện Thới Bình.

Những địa chỉ thiêng liêng

Trong 2 cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, lớp lớp những người con Cà Mau lên đường đánh giặc, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Ðể đổi lấy ngày độc lập, chỉ trên quê hương Cà Mau đã có 17.678 liệt sĩ, 16.467 thương binh, 2.510 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gần 17 ngàn người đang hưởng trợ cấp hằng tháng.

Làm đẹp địa chỉ đỏ

Trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt, xương máu của lớp lớp thế hệ ông cha đã thấm đẫm trên từng tấc đất quê hương. Ðể tưởng nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ, tại các xã, thị trấn trong huyện Ngọc Hiển đều xây dựng các đài tưởng niệm, nhà bia ghi danh liệt sĩ. Những công trình này vừa thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, vừa góp phần giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của dân tộc cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.