ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 25-8-25 20:34:05
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nỗi lòng người lính phương xa

Báo Cà Mau Trong suốt những năm tháng chiến đấu xa quê hương, xa Tổ quốc, những người con của quê hương Minh Hải ngày nào vừa mới đi qua cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chưa được hưởng trọn niềm vui khi đất nước hoà bình, thống nhất, nhiều đồng chí chưa dám nghĩ đến việc lập gia đình và tạo lập cuộc sống riêng tư, thậm chí chưa có dịp về thăm lại quê hương xứ sở, thăm lại bạn bè.

Trong suốt những năm tháng chiến đấu xa quê hương, xa Tổ quốc, những người con của quê hương Minh Hải ngày nào vừa mới đi qua cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chưa được hưởng trọn niềm vui khi đất nước hoà bình, thống nhất, nhiều đồng chí chưa dám nghĩ đến việc lập gia đình và tạo lập cuộc sống riêng tư, thậm chí chưa có dịp về thăm lại quê hương xứ sở, thăm lại bạn bè. Một lần nữa, người lính phải gác lại chuyện riêng tư tiếp tục cầm súng lên đường tham gia chiến đấu bảo vệ từng tấc đất thân yêu nơi biên cương của Tổ quốc ở chiến trường Hà Tiên - Kiên Giang.

Ðến tháng Giêng năm 1979, đáp lời kêu gọi thiết tha của Mặt trận Dân tộc cứu nước Campuchia anh em, họ lại cùng đoàn quân tình nguyện Việt Nam tiến sang giải phóng đất nước và giúp Nhân dân Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng của tập đoàn phản động Pôn Pốt; rồi cũng từ đó, suốt gần 10 năm họ làm nhiệm vụ quốc tế, vừa chiến đấu, vừa giúp bạn trên chiến trường tỉnh Kô Kông.

Minh hoạ: Hoàng Vũ

Suốt những năm tháng xa quê hương ấy, với tinh thần quốc tế cao cả và đứng trên quan điểm “Giúp bạn là tự giúp mình”, hàng ngàn cán bộ chiến sĩ của lực lượng vũ trang Minh Hải (nay là tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu), sẵn sàng chấp nhận những nỗi gian lao, vất vả thiếu thốn mọi điều, cả đến hy sinh tính mạng và mất mát một phần thân thể vì sự bình yên của đất nước Việt Nam, sự hồi sinh của dân tộc Campuchia anh em. Có những đơn vị hành quân truy quét tàn quân địch hay đứng chặn chốt giữa sâu trong các vùng rừng núi đại ngàn, lương thực, thực phẩm rất thiếu thốn, đặc biệt là có lúc thiếu muối ăn trầm trọng. Nhiều đơn vị cử bộ đội về phía sau tải gạo, tải thương, nhiều đồng chí vấp phải mìn và bị địch phục kích hy sinh; bệnh sốt rét rừng cũng từng quật ngã nhiều anh em đang tràn đầy sức trẻ.

Những nỗi gian lao vất vả của người lính ở chiến trường đất bạn trong suốt những năm 80 của thế kỷ XX thì không làm sao nói hết được, nhưng người lính cũng vượt qua tất cả. Duy chỉ có một điều tôi cũng muốn nói ra để thế hệ hôm nay và mai sau hiểu và cùng chia sẻ, cảm thông cho những nỗi lòng của người lính chiến đấu xa quê hương, xa Tổ quốc, đó chính là sự thiếu thốn về tình cảm.

 Vào những năm 80 ấy, mặc dù chiến đấu xa Tổ quốc, nhưng người lính hiểu rằng đất nước ta vừa trải qua 2 cuộc kháng chiến, hậu quả chiến tranh để lại nặng nề, lại bị bao vây cấm vận, đất nước ta lại trong thời kỳ bao cấp, nền kinh tế vô cùng khó khăn, lương thực, thực phẩm thiếu thốn trầm trọng, có lúc cán bộ, công chức và bộ đội phải ăn độn bột mì và cao lương. Trong điều kiện ấy, nhiều đồng chí, anh em chúng tôi có dịp nghỉ phép về thăm gia đình, nhìn thấy cảnh sống khó khăn của cha mẹ, anh em và vợ con thì lòng thật xót xa.

Một vấn đề khác cũng thật tế nhị, rất khó nói ra, đó là nỗi lòng luôn phải chịu sự thiếu thốn tình cảm của hậu phương. Trong những năm chống giặc Mỹ xâm lược, dẫu sao bên cạnh đó cũng có tình cảm của hậu phương, gia đình nhưng sang chiến đấu bên chiến trường Campuchia, đối với anh em cán bộ thì thỉnh thoảng 1-2 năm còn được nghỉ phép về thăm gia đình. Ðặc biệt là số chiến sĩ trẻ thực hiện nghĩa vụ quân sự 3 năm thì không có chế độ nghỉ phép. Nhiều đơn vị đứng chốt giữ giữa rừng sâu không có bóng dáng người dân Campuchia.

Có lần vào cuối năm 1980, khi đơn vị của chúng tôi lên chốt giữ ở vùng Bến Ðá, đồi Không Tên, điểm cao K172, một hôm, Ðoàn Văn công Quân khu 9 sang phục vụ tại Ban Chỉ huy Trung đoàn 20. Ðêm ấy, chỉ có 50% quân số được xem văn công biểu diễn, số còn lại phải làm nhiệm vụ trên các điểm chốt dọc biên giới Campuchia - Thái Lan, không được xem. Sáng hôm sau, được biết đoàn còn lưu lại ở trung đoàn, nhiều anh em ở các chốt điện về đề nghị các chị Thanh Thoảng, Như Nguyệt hát vài câu vọng cổ qua máy bộ đàm vì anh em thèm được nghe giọng ca của con gái nước mình. Trước khẩn cầu tha thiết đó, đơn vị phải mất vài chục lố pin để anh em được nghe giọng ca của ca sĩ từ Việt Nam sang.

Một lần khác, vào dịp cuối năm 1985, đoàn cán bộ phụ nữ tỉnh nhà do cô Út Bình sang thăm và chúc Tết bộ đội. Ðoàn đến thăm và chúc Tết cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 3 đứng chân tại Chikholơ. Ðơn vị đang cử 1 đại đội truy quét địch trong rừng, sáng hôm đó khi nghe tin đoàn Minh Hải đến thăm, Ban Chỉ huy đại đội cho bộ đội băng rừng vượt qua trên 15 km để kịp về đón đoàn đến thăm. Trên đường hành quân về, các chiến sĩ ta hái những cành hoa rừng rất đẹp, khi vừa về đến đơn vị thì đoàn đã đến trước đó khoảng nửa giờ, cô Út Bình đang nói chuyện với anh em trong hội trường, số cán bộ, chiến sĩ vừa mới về đến chạy ào vào hội trường tặng những đoá hoa tươi thắm và ôm hôn thắm thiết cô Út và các cô gái trong đoàn - một cử chỉ thật tình cảm để thoả lòng khát khao vì quá lâu họ mới được gặp người con gái Việt Nam.

Có lẽ các chị, các em cũng hiểu và cảm thông cho người lính sống xa quê nhà. Cũng tại buổi gặp gỡ này, tôi còn nhớ có em gái tên là Ngọc Huệ hát phục vụ cho anh em nghe bài “Nhớ”. Cuối bài hát có câu “Ai nhớ cứ nhớ, ai đi cứ đi, chiến trường súng nổ, thắng giặc lại về...”. Ôi! Giọng hát, lời ca của em sao mà tha thiết quá, làm cho nhiều anh chàng lính trẻ cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ. Sau đó, cơ quan tuyên huấn của Ðoàn 9907 nhờ Ngọc Huệ hát lại bài ca ấy để thu vào băng rồi sang ra mấy chục cuốn để gửi xuống các đơn vị cho anh em nghe...

Ðó là vài câu chuyện về nỗi niềm khát khao cháy bỏng của những người con chiến đấu ở xa quê hương, Tổ quốc. Có lẽ những ai là người trong cuộc mới thấu hiểu và cảm thông cho nỗi niềm ấy. Có thể nói, đó là sự chấp nhận hy sinh không hề nhỏ. Ðến hôm nay, sau hơn 25 năm về lại với quê nhà, sống trong điều kiện đất nước hoà bình, kinh tế đủ đầy, những người lính chúng tôi đã từng trải qua những năm tháng, ở chiến trường đất bạn, vẫn không thể nào quên những kỷ niệm ấy./.

Võ Hà Ðô

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.