Ở Việt Nam, vào năm 1960, tỷ lệ tăng huyết áp chỉ vào khoảng 1% dân số. Nhưng hiện nay, theo số liệu của nhiều công trình nghiên cứu, tỷ lệ này cao hơn 10%. Như vậy, tăng huyết áp đã trở thành một vấn đề sức khoẻ cộng đồng quan trọng. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì tăng huyết áp được quy định như sau: huyết áp tâm thu (HA tối đa) 140 mmHg; huyết áp tâm trương (HA tối thiểu) 90 mmHg, huyết áp bình thường dưới 140/90 mmHg.
Ở Việt Nam, vào năm 1960, tỷ lệ tăng huyết áp chỉ vào khoảng 1% dân số. Nhưng hiện nay, theo số liệu của nhiều công trình nghiên cứu, tỷ lệ này cao hơn 10%. Như vậy, tăng huyết áp đã trở thành một vấn đề sức khoẻ cộng đồng quan trọng. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì tăng huyết áp được quy định như sau: huyết áp tâm thu (HA tối đa) 140 mmHg; huyết áp tâm trương (HA tối thiểu) 90 mmHg, huyết áp bình thường dưới 140/90 mmHg.
Yếu tố nguy cơ chính của tai biến mạch não là tăng huyết áp. Các nghiên cứu đều thấy, mức huyết áp tăng lên song song với nguy cơ các bệnh tim do mạch vành và tai biến mạch não. Chế độ ăn có thể tác động đến huyết áp động mạch qua nhiều khâu, đặc biệt là natri, kali, canxi, mỡ động vật, đường và chất xơ. Trong các nguyên nhân gây tăng huyết áp, trước hết người ta thường kể đến lượng muối ăn (muối natri) trong khẩu phần.
![]() |
Bên cạnh muối ăn còn có một số muối khác cũng có vai trò đối với tăng huyết áp. Gần đây người ta nhấn mạnh vai trò của tỷ số kali/natri trong khẩu phần và cho rằng chế độ ăn giàu kali có lợi cho người tăng huyết áp. Tăng lượng canxi trong khẩu phần ăn có ảnh hưởng làm giảm huyết áp. Sữa và các chế phẩm từ sữa là nguồn canxi tốt, các thức ăn nguồn gốc thực vật như lương thực, khoai củ, đậu và các loại rau quả có nhiều kali. Thêm vào đó, khẩu phần ăn nhiều chất bão hoà, khẩu phần ăn nhiều mỡ động vật cũng dẫn đến tăng huyết áp.
Như vậy, bên cạnh muối ăn, nhiều thành phần khác trong chế độ ăn cũng có ảnh hưởng đến tăng huyết áp. Ngoài ra, một số yếu tố khác được đề cập tới là béo phì và rượu. Tỷ lệ tăng huyết áp ở người béo phì cao hơn hẳn ở người không béo phì đã trở thành một vấn đề cần quan tâm trong chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Cơ chế tăng huyết áp do béo phì có thể do: tăng thể tích tuần hoàn, tăng cung lượng tim, sức kháng ngoại vi tăng. Như vậy, trong dự phòng và điều trị tăng huyết áp phải kết hợp chế độ ăn chống béo phì, vì béo phì có liên quan chặt chẽ và là một yếu tố gây tăng huyết áp. Uống nhiều rượu thì huyết áp tăng lên không phụ thuộc cân nặng hoặc tuổi tác. Ở người tăng huyết áp, bỏ rượu thì huyết áp tâm thu (huyết áp tối đa) giảm từ 4-8 mmHg, huyết áp tâm trương (huyết áp tối thiểu) giảm ít hơn.
Một chế độ ăn hạn chế muối, giảm năng lượng và rượu có thể đủ để làm giảm huyết áp ở phần lớn đối tượng có tăng huyết áp nhẹ. Ở những người tăng huyết áp nặng, chế độ ăn uống nói trên giúp giảm bớt liều lượng các thuốc hạ áp cần thiết. Bên cạnh đó, chế độ ăn nên giàu canxi, kali, nên thay thế các chất béo của thịt bằng cá và dầu thực vật.
Tóm lại, để phòng bệnh tăng huyết áp không tốn tiền, người cao huyết áp cần tuân thủ một số biện pháp phòng bệnh đó là: duy trì cân nặng hợp lý, ăn nhiều rau quả, ăn lạt. Tập luyện thể dục thể thao tối thiểu từ 30-60 phút/ngày (năm ngày một tuần) sẽ giúp giảm huyết áp và ngăn ngừa mắc bệnh cao huyết áp. Uống vừa phải đồ uống có cồn, giảm stress, không hút thuốc lá, giữ lối sống lành mạnh sẽ giúp ngăn ngừa và giảm đáng kể việc phải dùng thuốc điều trị bệnh./.
Bác sĩ Nguyễn Hiền