ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 9-7-24 01:39:30
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Thầy giáo làng trong kháng chiến

Báo Cà Mau Quê chồng tôi ở ấp Bào Kè, xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước. Thỉnh thoảng trong những lần về quê, nhất là dịp đám tiệc đông người, tôi hay nghe nhắc về ông thầy giáo làng tên Giang (Lê Văn Giang) mà theo vai vế thân tộc, bà con lối xóm, nhiều người gọi cụ đến bằng ông chú, ông cố... Tất cả đều thừa nhận: “Cả xứ này nhờ ông mà nhiều người biết chữ”.

Khi tôi nói muốn tìm hiểu về ông cụ, bà Nguyễn Thị Nàng (58 tuổi), cháu dâu, gọi cụ bằng ông nội (hiện vợ chồng bà đảm nhận việc thờ cúng cụ tại ấp Năm Ðảm, xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước), ngẫm ngợi rồi tặc lưỡi: “Phải sớm hơn chừng vài năm trước thì còn nhiều người biết. Giờ những người lớn tuổi theo ông theo bà muốn hết rồi...”. 

Rồi bà đưa tôi đến gặp ông Lê Minh Quang (Bảy Quang, 82 tuổi, cùng ấp Năm Ðảm), mà theo bà, có thể còn biết tương đối về ông; bởi ngoài tuổi cao, ông Bảy Quang còn là cháu, gọi cụ bằng chú ruột, cũng coi như thế hệ lão làng còn lại.

Mừng là ông Bảy còn khá minh mẫn, nhưng ông nói ngay: “Ðoạn trước tôi không biết. Khi tôi lớn lên thì thấy ông đã đi dạy học từ đời nào rồi. Ông sinh năm 1890, cùng năm sinh với Bác Hồ. Hồi thiếu niên tôi có đi làm giao liên mật, biết ông hoạt động bí mật trong tổ Ðảng, còn cụ thể chức danh gì thì không rõ. Chỉ biết ông dạy học xuyên suốt tới khi mất, là năm 1972”.

Chân dung thầy giáo làng Lê Văn Giang.

Ông Bảy kể, ông học cụ năm 1958, tới lớp Nhì (tương đương lớp 4 ngày nay) thì đến tuổi quân dịch, ông nghỉ học, đi bộ đội. Ông Bảy cho biết, từ năm 1958 đến năm 1972, ông cụ phải dời trường học 3 lần. Ban đầu trường cất ở đập Bào Bèo (nơi có đồn địch), năm 1963 trường bị lính đốt, ông cụ bị lính bắt, bị đánh đập. “Hồi đó ông già tôi là anh ruột, nghe nói bán bộn lúa để lo, ông cụ mới được thả ra”, ông Bảy nhớ lại.

Sau khi được thả, cụ tiếp tục về phần đất gia đình, cách đó 5-6 cây số (trên tuyến sông Bào Kè nối với sông Bào Bèo) để cất trường dạy học tiếp. Ðến khoảng năm 1969, trường bị hư, cụ dời trở ra mấy cây số (cũng trên tuyến sông Bào Kè). “Các điểm trường đều nằm trên đất gia đình. Hồi đó, nghe nói gốc gác tôi ở miền Trung, tới đời ông nội vô khai phá mảnh đất này. Ðất hoang, rừng rậm, có sức bao nhiêu thì khai phá bấy nhiêu để sản xuất nên các cụ mới có nhiều đất vậy”, ông Bảy giảng giải.

Cũng theo ông Bảy, ông cụ dạy học không lấy tiền bạc của ai. Cất trường thì vận động cha mẹ học sinh đóng góp cây lá. Cụ xả cây gòn, cây còng, cây cau lấy ván làm bàn ghế. “Chương trình dạy cũng mỗi năm lên 1 lớp. Hồi đó không có sách giáo khoa, chỉ thấy ông soạn bài trong cuốn sổ rồi dạy. Ông dạy ngày 3 buổi: sáng, trưa, chiều, gồm các lớp khác nhau”, ông Bảy nhớ lại.

Ông Lê Minh Quang (cháu ruột) cũng coi như thế hệ lão làng còn lại, có hiểu biết tương đối về cụ Lê Văn Giang.

Cũng theo lời ông Bảy, hồi đó chiến tranh, điều kiện khó khăn, cũng không có lộ làng, đường sá gì. Mùa mưa, học sinh bơi xuồng đi học hoặc lội bộ dưới sình dưới nước men theo xóm đến trường, vì vậy mà trẻ em thường cỡ 10, 11, 12 tuổi trở lên mới đi học. “Vậy chứ mỗi lớp cũng mấy chục học sinh. Hồi đó nơi đây là xã Thạnh Phú, địa bàn xã lớn lắm, bao gồm cả xã Lương Thế Trân và Thạnh Phú bây giờ. Học trò không chỉ ở Bào Kè mà còn nhiều nơi tới học, như Cây Dương, Lung Cỏ, Nhà Phấn... Có nơi cách trường 5-7 cây số”, ông Bảy lần hồi nhớ lại.

“Có lúc ban ngày ông dạy học sinh nhỏ, ban đêm dạy xoá mù chữ cho người lớn. Hồi đó tôi về làm dâu, trường cất gần bên nhà này, mỗi tối, mỗi người xách 1 cây đèn lội tới học ì xèo, vui lắm! Mình lúc đó con nhỏ không có tham gia, nhưng mà bên này nghe dạy, cũng thuộc làu làu”, bà Hứa Thị Búi (77 tuổi, vợ ông Bảy), cũng góp vào câu chuyện. Ðó là khoảng năm 1963 trở về sau, lúc trường dời về, sau khi bị giặc đốt. 

“Nghe nói ông dạy học từ hồi còn thanh niên. Dân ở đây từ trên 60 đến hơn 90 tuổi hầu như học ông hết. Ông Ba Vinh, ông Hai Tảng (hơn 90 tuổi, đã mất), trước đây, khoảng năm 1971, 1972 người là Chủ tịch, người là Bí thư xã Thạnh Phú, đều là học trò của ông. Ở xóm này, có rất nhiều gia đình 2 thế hệ đều học ông".

Quay sang tôi, ông Bảy nhắc: "Theo chú biết, ba chồng cháu hồi đó cũng học ông, nói chung, bên chồng cháu nhiều người theo học chỗ ông”.

Ba chồng tôi là Liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Chung Thành Châu, nguyên Chính uỷ Trung đoàn 962. Trước, ông là Bí thư Huyện uỷ Cái Nước, rồi Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng ban Dân vận Tỉnh uỷ. Ông tham gia cách mạng năm 1947, như vậy chắc chắn ông học cụ trước thời gian này. Như vậy, cũng đồng nghĩa là cụ đã dạy học từ trước năm 1947.

Dĩ nhiên, sau này ba chồng tôi cũng như anh chị em chồng tôi đi làm cách mạng, tham gia công tác đều học thêm lên, nhưng cái nền biết chữ đầu tiên cũng chính là nhờ ông.

Tôi hẹn gặp thêm chồng bà Nàng, tức cháu nội, đang thờ cúng cụ, là ông Lê Văn Thôi (Út Thôi, 61 tuổi) và ông Nguyễn Anh Tuấn (Ba Tuấn, 70 tuổi, cùng ấp Năm Ðảm) để mong tìm thêm thông tin giai đoạn sau. Ông Ba Tuấn kể, ông học cụ từ năm 1966, 2 năm sau thì xảy ra sự kiện Tết Mậu Thân 1968, và ông tham gia địa phương quân nên không biết thêm. Ông Út Thôi thì học cụ năm 1969, thuộc thế hệ học trò của những lớp sau cùng được cụ dạy.

Ông Lê Văn Thôi (bìa trái, là cháu nội cụ Giang) và vợ là bà Nguyễn Thị Nàng (ngồi cạnh) cùng ông Nguyễn Anh Tuấn (bìa phải) cố gắng nhớ và kể lại những ký ức về cụ Lê Văn Giang.

Ông Ba Tuấn chỉ nhớ rằng, cụ giản dị, hiền từ, dạy dễ hiểu, vui tính; không có kiểu nổi giận, đập bàn đập ghế, hăm he hay đánh đập học sinh.

Ông Út Thôi thì nhớ: “Lúc đó ông dạy lớp ghép, độ hai mấy học sinh. Ông vui tính, khi dạy xong thường hát một bài bằng tiếng Pháp để cho học sinh vui”.

Cũng theo dòng hồi nhớ của ông Út Thôi: “Thấy ông cụ lớn tuổi, sức khoẻ kém mà dạy cực khổ quá, cha tôi khuyên nghỉ, nhưng ông cương quyết không chịu. Dạy đến qua Tết năm 1972 thì ông đổ bệnh. Ðến ngày 19/10/1972 thì ông mất, thọ 82 tuổi".

Nhìn thấy huân chương kháng chiến của ông chỉ được hạng Ba, tôi thắc mắc, vì thời gian cống hiến dài, công trạng của ông lại nhiều. Gia đình cho biết, do không rành việc làm báo công, phải nhờ tới lui nên muộn, những người biết về ông giai đoạn trước không còn. Tiếc thay!

Lại thêm những chiêm nghiệm rút ra từ cuộc sống. Ðôi khi vì những trì hoãn, chậm trễ, chúng ta mất đi nhiều cơ hội làm được điều tốt đẹp cho người thân, người có công trạng, hay để mất đi nhiều thông tin, tư liệu lịch sử quý báu mà không tìm lại được.

Và cũng từ câu chuyện về cụ, tôi biết thêm, thời kháng chiến, ở tỉnh ta không chỉ có những thầy cô được đào tạo cấp tốc để phổ cập nhanh kiến thức văn hoá cho các địa phương, mà còn có những thầy cô giáo tại thôn làng, âm thầm mang ánh sáng văn hoá đến cho người dân từ năm này đến năm khác, thế hệ này đến thế hệ khác, mà không nhận thù lao, lương bổng. Họ có những đóng góp ý nghĩa cho ngành giáo dục tỉnh nhà một thời, nhưng đôi khi không phải nhiều người, hay ngành chuyên môn đã biết và ghi nhận./.

 

Huyền Anh

 

Trường nội trú Cà Mau - Ninh Bình: Những ký ức không phai

Cuối tháng 3/1972, ở đây chưa có mưa, còn là mùa hạn. Thầy Lê Châu, Hiệu trưởng và thầy Năm Thuật, Hiệu phó Trường Nội trú Cà Mau - Ninh Bình, khoá 3, đến Xóm Dừa, Ấp 6A. Cô Mười Mỳ là Bí thư Chi bộ xã Quách Văn Phẩm “B”, huyện Tư Kháng (huyện Ðầm Dơi ngày nay). Các thầy tìm chỗ để cất trường học và chọn vườn cô Út Ngươn để đặt lớp học. Xa ngoài kia, chọn vườn Biện Ðài, Lung Chim và 1 điểm nữa ở Thanh Tùng.

Chuyện chữ “T” của Nhà báo Trần Ngọc Hy

Nhà báo Trần Ngọc Hy, người Cà Mau, tham gia kháng chiến chống Pháp ở tỉnh Bạc Liêu xưa. Ông viết chuyện vui chữ “T” đăng báo “RÙM”, tức rừng U Minh - tờ báo tường nội bộ cơ quan Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, đóng ở Chiến khu U Minh trên đất Cà Mau thời 9 năm kháng Pháp, khoảng 1949-1950.

Báo Minh Hải - Niềm tự hào chưa cạn tỏ

Báo Minh Hải là tiền thân của Báo Bạc Liêu, Cà Mau ngày nay. Hơn 20 năm hoạt động, tờ báo này đã trở thành chiếc nôi rèn luyện cho thế hệ báo chí sau ngày thống nhất đất nước. Từ đây, đã có nhiều nhà báo trưởng thành, trở thành cán bộ lãnh đạo của báo chí, văn học nghệ thuật 2 tỉnh và Trung ương, nhiều nhà báo trở thành những tài danh báo chí, văn chương. Hướng tới kỷ niệm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6, chúng tôi trân trọng giới thiệu tâm tình của một nhà báo, nhà văn, người đã sống trọn vẹn suốt thời gian măng sét Báo Minh Hải tồn tại trong lòng độc giả, cùng bạn đọc hôm nay.

Ðể vùng quê… trắng hộ nghèo - Bài cuối: Ðiểm sáng xoá nghèo

Trên cơ sở trợ lực từ nhiều chương trình, chính sách, sự chung tay góp sức của cộng đồng; các cấp uỷ đảng, chính quyền trên địa bàn tỉnh đã sâu sát trong dân, nắm chặt hoàn cảnh hộ nghèo để triển khai đồng loạt biện pháp hỗ trợ phù hợp, hiệu quả; đồng thời giúp người nghèo thay đổi nếp nghĩ, cách làm, khơi gợi ý chí phấn đấu thoát nghèo, hướng đến tương lai tốt đẹp hơn.

Ðể vùng quê… trắng hộ nghèo - Bài 2: Không để người nghèo bị bỏ lại phía sau

Cùng với triển khai đồng bộ các chương trình mục tiêu quốc gia, Cà Mau thực hiện tốt phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”. Phong trào đã lan toả giá trị nhân văn trong cộng đồng, tạo động lực, niềm tin để hộ nghèo, người gặp hoạn nạn sớm ổn định cuộc sống, giúp các địa phương hiện thực hoá mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Ðể vùng quê… trắng hộ nghèo

Cùng với phục hồi và tăng trưởng kinh tế, Cà Mau luôn đặt mục tiêu giảm nghèo là ưu tiên hàng đầu. Bằng những giải pháp đồng bộ, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, ý thức vươn lên của hộ nghèo, cuối năm 2023 Cà Mau còn 1,6% hộ nghèo (giảm 2.507 hộ nghèo), 1,56% hộ cận nghèo (giảm 922 hộ). Ðặc biệt, tỉnh có 170 ấp, khóm và 5 xã, phường, thị trấn xoá trắng hộ nghèo. Ðó là những điểm sáng, lan toả kinh nghiệm, cách làm hay và là động lực trong hành trình giảm nghèo bền vững của tỉnh.

Ðảng tăng cường sức mạnh, dân đồng thuận làm theo - Bài cuối: Phải thật sự gần dân, sát cơ sở

Đến thời điểm này, có thể khẳng định chủ trương trước đây của Huyện uỷ Phú Tân về cải tạo vườn tạp, trồng hoa màu, mang lại hiệu quả kinh tế hộ; hay như việc tận dụng trồng cây xanh ven sông để ngăn chặn sạt lở... đã mang lại kết quả đáng tự hào, được Nhân dân trong huyện tích cực hưởng ứng tham gia, lan toả. Nhìn từ Phú Tân, các địa phương khác có điều kiện tương tự, học tập làm theo và cũng đạt kết quả đáng phấn khởi. Bài học rút ra là cái gì mang lại lợi ích thiết thực vì việc chung sẽ được người dân tích cực đồng lòng chung tay, góp sức.

Ðảng tăng cường sức mạnh, dân đồng thuận làm theo - Bài 2: ...Ðến chỉ thị cấp bách

Trước những biến đổi khó lường của thời tiết, ngày 16/2/2024, Huyện uỷ Trần Văn Thời đã ban hành Chỉ thị số 09-CT/HU (Chỉ thị 09) về tăng cường các biện pháp ứng phó, khắc phục hậu quả do hạn hán gây ra, nhằm huy động sức mạnh cả hệ thống chính trị để ứng phó, giảm thiểu tác động. Ông Nguyễn Minh Nhứt, Bí thư Huyện uỷ Trần Văn Thời, cho biết, Chỉ thị 09 ban hành phù hợp thực tiễn, tạo được sự đồng thuận, tham gia tích cực của các tầng lớp Nhân dân, tạo chuyển biến trong nhận thức, hành động của từng cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên... vì việc chung.

Ðảng tăng cường sức mạnh, dân đồng thuận làm theo

Trong quá trình chỉ đạo, điều hành bộ máy chính trị của Ðảng và Nhà nước, có những việc cần định hướng với tầm nhìn chiến lược dài hơi, có quá trình thực hiện mang tính giai đoạn; có những việc mang tính cấp bách, cần tập trung xử lý ngay, dứt điểm trong thời khắc nhất định. Song, tất cả đều hướng đến mục tiêu là nhằm lan toả chủ trương hợp lòng dân, sát thực tế, được cụ thể hoá đi vào đời sống Nhân dân, nâng cao nhận thức đúng đắn để cùng chung tay thực hiện nhiệm vụ chính trị với quyết tâm cao nhất vì sự an toàn, phát triển nhanh và bền vững của xã hội… Ðảng tăng cường sức mạnh, dân tin tưởng làm theo sẽ tạo nên nội lực vững chãi, vượt qua mọi khó khăn, thách thức.

Biển có vững, bờ mới yên - Bài cuối: Quân - dân nghĩa tình

“Trường Sa vì Tổ quốc”, “Cả nước vì Trường Sa”, những tiếng hô đồng thanh vang vọng giữa trùng khơi khi tàu rời cảng Trường Sa đã nói lên phần nào sự gắn bó máu thịt của tình quân - dân. Nghĩa tình ấy chính là sức mạnh để Trường Sa, vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, luôn luôn vững vàng nơi đầu sóng ngọn gió.