ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 27-7-25 23:51:22
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Thầy giáo làng trong kháng chiến

Báo Cà Mau Quê chồng tôi ở ấp Bào Kè, xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước. Thỉnh thoảng trong những lần về quê, nhất là dịp đám tiệc đông người, tôi hay nghe nhắc về ông thầy giáo làng tên Giang (Lê Văn Giang) mà theo vai vế thân tộc, bà con lối xóm, nhiều người gọi cụ đến bằng ông chú, ông cố... Tất cả đều thừa nhận: “Cả xứ này nhờ ông mà nhiều người biết chữ”.

Khi tôi nói muốn tìm hiểu về ông cụ, bà Nguyễn Thị Nàng (58 tuổi), cháu dâu, gọi cụ bằng ông nội (hiện vợ chồng bà đảm nhận việc thờ cúng cụ tại ấp Năm Ðảm, xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước), ngẫm ngợi rồi tặc lưỡi: “Phải sớm hơn chừng vài năm trước thì còn nhiều người biết. Giờ những người lớn tuổi theo ông theo bà muốn hết rồi...”. 

Rồi bà đưa tôi đến gặp ông Lê Minh Quang (Bảy Quang, 82 tuổi, cùng ấp Năm Ðảm), mà theo bà, có thể còn biết tương đối về ông; bởi ngoài tuổi cao, ông Bảy Quang còn là cháu, gọi cụ bằng chú ruột, cũng coi như thế hệ lão làng còn lại.

Mừng là ông Bảy còn khá minh mẫn, nhưng ông nói ngay: “Ðoạn trước tôi không biết. Khi tôi lớn lên thì thấy ông đã đi dạy học từ đời nào rồi. Ông sinh năm 1890, cùng năm sinh với Bác Hồ. Hồi thiếu niên tôi có đi làm giao liên mật, biết ông hoạt động bí mật trong tổ Ðảng, còn cụ thể chức danh gì thì không rõ. Chỉ biết ông dạy học xuyên suốt tới khi mất, là năm 1972”.

Chân dung thầy giáo làng Lê Văn Giang.

Ông Bảy kể, ông học cụ năm 1958, tới lớp Nhì (tương đương lớp 4 ngày nay) thì đến tuổi quân dịch, ông nghỉ học, đi bộ đội. Ông Bảy cho biết, từ năm 1958 đến năm 1972, ông cụ phải dời trường học 3 lần. Ban đầu trường cất ở đập Bào Bèo (nơi có đồn địch), năm 1963 trường bị lính đốt, ông cụ bị lính bắt, bị đánh đập. “Hồi đó ông già tôi là anh ruột, nghe nói bán bộn lúa để lo, ông cụ mới được thả ra”, ông Bảy nhớ lại.

Sau khi được thả, cụ tiếp tục về phần đất gia đình, cách đó 5-6 cây số (trên tuyến sông Bào Kè nối với sông Bào Bèo) để cất trường dạy học tiếp. Ðến khoảng năm 1969, trường bị hư, cụ dời trở ra mấy cây số (cũng trên tuyến sông Bào Kè). “Các điểm trường đều nằm trên đất gia đình. Hồi đó, nghe nói gốc gác tôi ở miền Trung, tới đời ông nội vô khai phá mảnh đất này. Ðất hoang, rừng rậm, có sức bao nhiêu thì khai phá bấy nhiêu để sản xuất nên các cụ mới có nhiều đất vậy”, ông Bảy giảng giải.

Cũng theo ông Bảy, ông cụ dạy học không lấy tiền bạc của ai. Cất trường thì vận động cha mẹ học sinh đóng góp cây lá. Cụ xả cây gòn, cây còng, cây cau lấy ván làm bàn ghế. “Chương trình dạy cũng mỗi năm lên 1 lớp. Hồi đó không có sách giáo khoa, chỉ thấy ông soạn bài trong cuốn sổ rồi dạy. Ông dạy ngày 3 buổi: sáng, trưa, chiều, gồm các lớp khác nhau”, ông Bảy nhớ lại.

Ông Lê Minh Quang (cháu ruột) cũng coi như thế hệ lão làng còn lại, có hiểu biết tương đối về cụ Lê Văn Giang.

Cũng theo lời ông Bảy, hồi đó chiến tranh, điều kiện khó khăn, cũng không có lộ làng, đường sá gì. Mùa mưa, học sinh bơi xuồng đi học hoặc lội bộ dưới sình dưới nước men theo xóm đến trường, vì vậy mà trẻ em thường cỡ 10, 11, 12 tuổi trở lên mới đi học. “Vậy chứ mỗi lớp cũng mấy chục học sinh. Hồi đó nơi đây là xã Thạnh Phú, địa bàn xã lớn lắm, bao gồm cả xã Lương Thế Trân và Thạnh Phú bây giờ. Học trò không chỉ ở Bào Kè mà còn nhiều nơi tới học, như Cây Dương, Lung Cỏ, Nhà Phấn... Có nơi cách trường 5-7 cây số”, ông Bảy lần hồi nhớ lại.

“Có lúc ban ngày ông dạy học sinh nhỏ, ban đêm dạy xoá mù chữ cho người lớn. Hồi đó tôi về làm dâu, trường cất gần bên nhà này, mỗi tối, mỗi người xách 1 cây đèn lội tới học ì xèo, vui lắm! Mình lúc đó con nhỏ không có tham gia, nhưng mà bên này nghe dạy, cũng thuộc làu làu”, bà Hứa Thị Búi (77 tuổi, vợ ông Bảy), cũng góp vào câu chuyện. Ðó là khoảng năm 1963 trở về sau, lúc trường dời về, sau khi bị giặc đốt. 

“Nghe nói ông dạy học từ hồi còn thanh niên. Dân ở đây từ trên 60 đến hơn 90 tuổi hầu như học ông hết. Ông Ba Vinh, ông Hai Tảng (hơn 90 tuổi, đã mất), trước đây, khoảng năm 1971, 1972 người là Chủ tịch, người là Bí thư xã Thạnh Phú, đều là học trò của ông. Ở xóm này, có rất nhiều gia đình 2 thế hệ đều học ông".

Quay sang tôi, ông Bảy nhắc: "Theo chú biết, ba chồng cháu hồi đó cũng học ông, nói chung, bên chồng cháu nhiều người theo học chỗ ông”.

Ba chồng tôi là Liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Chung Thành Châu, nguyên Chính uỷ Trung đoàn 962. Trước, ông là Bí thư Huyện uỷ Cái Nước, rồi Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng ban Dân vận Tỉnh uỷ. Ông tham gia cách mạng năm 1947, như vậy chắc chắn ông học cụ trước thời gian này. Như vậy, cũng đồng nghĩa là cụ đã dạy học từ trước năm 1947.

Dĩ nhiên, sau này ba chồng tôi cũng như anh chị em chồng tôi đi làm cách mạng, tham gia công tác đều học thêm lên, nhưng cái nền biết chữ đầu tiên cũng chính là nhờ ông.

Tôi hẹn gặp thêm chồng bà Nàng, tức cháu nội, đang thờ cúng cụ, là ông Lê Văn Thôi (Út Thôi, 61 tuổi) và ông Nguyễn Anh Tuấn (Ba Tuấn, 70 tuổi, cùng ấp Năm Ðảm) để mong tìm thêm thông tin giai đoạn sau. Ông Ba Tuấn kể, ông học cụ từ năm 1966, 2 năm sau thì xảy ra sự kiện Tết Mậu Thân 1968, và ông tham gia địa phương quân nên không biết thêm. Ông Út Thôi thì học cụ năm 1969, thuộc thế hệ học trò của những lớp sau cùng được cụ dạy.

Ông Lê Văn Thôi (bìa trái, là cháu nội cụ Giang) và vợ là bà Nguyễn Thị Nàng (ngồi cạnh) cùng ông Nguyễn Anh Tuấn (bìa phải) cố gắng nhớ và kể lại những ký ức về cụ Lê Văn Giang.

Ông Ba Tuấn chỉ nhớ rằng, cụ giản dị, hiền từ, dạy dễ hiểu, vui tính; không có kiểu nổi giận, đập bàn đập ghế, hăm he hay đánh đập học sinh.

Ông Út Thôi thì nhớ: “Lúc đó ông dạy lớp ghép, độ hai mấy học sinh. Ông vui tính, khi dạy xong thường hát một bài bằng tiếng Pháp để cho học sinh vui”.

Cũng theo dòng hồi nhớ của ông Út Thôi: “Thấy ông cụ lớn tuổi, sức khoẻ kém mà dạy cực khổ quá, cha tôi khuyên nghỉ, nhưng ông cương quyết không chịu. Dạy đến qua Tết năm 1972 thì ông đổ bệnh. Ðến ngày 19/10/1972 thì ông mất, thọ 82 tuổi".

Nhìn thấy huân chương kháng chiến của ông chỉ được hạng Ba, tôi thắc mắc, vì thời gian cống hiến dài, công trạng của ông lại nhiều. Gia đình cho biết, do không rành việc làm báo công, phải nhờ tới lui nên muộn, những người biết về ông giai đoạn trước không còn. Tiếc thay!

Lại thêm những chiêm nghiệm rút ra từ cuộc sống. Ðôi khi vì những trì hoãn, chậm trễ, chúng ta mất đi nhiều cơ hội làm được điều tốt đẹp cho người thân, người có công trạng, hay để mất đi nhiều thông tin, tư liệu lịch sử quý báu mà không tìm lại được.

Và cũng từ câu chuyện về cụ, tôi biết thêm, thời kháng chiến, ở tỉnh ta không chỉ có những thầy cô được đào tạo cấp tốc để phổ cập nhanh kiến thức văn hoá cho các địa phương, mà còn có những thầy cô giáo tại thôn làng, âm thầm mang ánh sáng văn hoá đến cho người dân từ năm này đến năm khác, thế hệ này đến thế hệ khác, mà không nhận thù lao, lương bổng. Họ có những đóng góp ý nghĩa cho ngành giáo dục tỉnh nhà một thời, nhưng đôi khi không phải nhiều người, hay ngành chuyên môn đã biết và ghi nhận./.

 

Huyền Anh

 

Vùng trời nào cũng là quê hương...

Tôi trở về Bạc Liêu vào một chiều hè oi ả, khi mặt trời đỏ rực như đang cháy hết mình trước khi lặn xuống phía chân trời, nơi những cánh đồng muối lấp lánh như tấm gương khổng lồ phản chiếu ánh hoàng hôn.

Dân vận khéo, vun đắp niềm tin - Bài cuối: Xây dựng thế trận lòng dân vững chắc

Đồng chí Nguyễn Minh Luân, Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, khẳng định:“Từ kết quả thực tiễn phong trào thi đua “Dân vận khéo” (DVK) của tỉnh trong nhiều năm qua, có thể khẳng định đây là chủ trương đúng đắn, phong trào thiết thực, hiệu quả, hợp lòng dân, được đông đảo đoàn viên, hội viên và Nhân dân hưởng ứng, tham gia, góp phần quan trọng vào ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà".

Dân vận khéo, vun đắp niềm tin - Bài 2: Khơi dậy tinh thần tương thân tương ái

Phong trào “Dân vận khéo" (DVK) đã lan toả khắp các miền quê trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Xuất phát điểm các mô hình DVK có khi là từ những việc nhỏ nhưng rất thiết thực như: tự nguyện vá những ổ gà, bồi lại đoạn đường bị sụt lún, sạt lở; vận động hộ khá, giàu cho hộ nghèo mượn đất cất nhà, đất sản xuất; nhận đỡ đầu học sinh nghèo, hoàn cảnh khó khăn… thế rồi được lan toả, nhân rộng thành mô hình hiệu quả, nêu cao tinh thần tương thân tương ái, thiết thực mang đến niềm vui, hạnh phúc cho người dân, nhất là người yếu thế.

Dân vận khéo, vun đắp niềm tin - Bài 1: Vì lợi ích Nhân dân

Thời gian qua, ở tỉnh Cà Mau đã có hàng ngàn mô hình dân vận khéo (DVK) hiệu quả, thiết thực vì cuộc sống người dân, hướng đến xây dựng “gia đình hạnh phúc”, “cộng đồng hạnh phúc” và dần tiến tới “xã hội hạnh phúc”. Và công tác dân vận khéo chính là cầu nối giữa ý Đảng với lòng dân; khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển bền vững kinh tế - xã hội tỉnh nhà.

Nửa thế kỷ chuyện “trồng người” ở Cà Mau - Bài cuối: Ðất lành - Trăm năm tươi tốt

Sau 50 năm thống nhất đất nước, hệ thống trường học trên địa tỉnh Cà Mau được quy hoạch, đầu tư kiên cố, khang trang (trường xanh, sạch, đẹp) theo Ðề án kiên cố hoá trường lớp, trang thiết bị được đầu tư hiện đại, phục vụ tốt Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, đáp ứng tốt nhu cầu dạy và học. Các trường được đầu tư theo hướng tiến tới đủ điều kiện công nhận trường đạt chuẩn quốc gia, hiện nay ngành giáo dục đang tiếp tục triển khai thực hiện sắp xếp mạng lưới trường lớp theo Ðề án “Sắp xếp, phát triển mạng lưới trường học trên địa bàn tỉnh Cà Mau giai đoạn 2020-2025, định hướng đến năm 2030”.

Nửa thế kỷ chuyện “trồng người” ở Cà Mau - Bài 2: Nhà giáo hai quê

Trong những năm tháng sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đội ngũ giáo viên vừa thiếu về số lượng, vừa hạn chế về chuyên môn. Tuy vậy, với tinh thần “tất cả vì sự nghiệp trồng người”, nhiều giáo viên tình nguyện từ miền Bắc vào Nam theo tiếng gọi “Nam tiến”, đã không ngại gian khổ bám trụ để dạy học giữa rừng đước, rừng tràm, bưng biền, để tạo nên lớp thế hệ tương lai cho quê hương.

Nửa thế kỷ chuyện “trồng người” ở Cà Mau

Từ "vùng trũng” giáo dục khi giải phóng (30/4/1975), sau nửa thế kỷ, Cà Mau - vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc đã có thể tự tin, tự hào để nói về một vùng đất hiếu học, vùng đất học. Một nhà giáo về hưu, được tăng cường từ miền Bắc vào để giảng dạy những năm đầu sau giải phóng, đã nói đại ý về giáo dục Cà Mau: "Bác Hồ dạy “mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Cà Mau là đất lành, thế nên rừng ở Cà Mau mênh mông đước tràm, chim kéo về làm tổ. Con người Cà Mau thì có bản sắc, cá tính riêng, chúng tôi, những người làm nghề giáo chỉ có mặt và góp thêm những điều mình có, nhỏ bé thôi, để khơi mở nội lực lớn lao của tài nguyên con người nơi đây”.

Báo chí đồng hành, đưa tín dụng chính sách đến dân - Bài cuối: Đồng hành trong chuyển đổi số

Chuyển đổi số trong hệ thống Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đang ngày càng đi vào chiều sâu, từ khâu quản lý đến phục vụ người dân. Trong hành trình đó, báo chí đã và đang đóng vai trò không thể thay thế, không chỉ là “kênh truyền dẫn” thông tin, mà còn là người bạn đồng hành tin cậy, giúp đưa tín dụng chính sách đến với người dân một cách hiệu quả, nhất là trong bối cảnh số hóa đang chuyển mình mạnh mẽ.

Báo chí đồng hành, đưa tín dụng chính sách đến dân

Giữa dòng chảy không ngừng của chính sách, báo chí như ống kính soi chiếu hiệu quả từ thực tiễn, là kênh chuyển tải tâm tư, nguyện vọng và nhu cầu chính đáng của người dân, đặc biệt là nhóm người yếu thế, từ đó góp phần xây dựng chính sách hoàn thiện, hiệu quả, thực sự đi vào đời sống Nhân dân. Ðiều này đặc biệt thấy rõ ở vai trò của báo chí đối với công tác truyền thông tín dụng chính sách thời gian qua.

Kỷ niệm với Trường Trung học Tiền Phong

Nhớ giữa năm 1953 đầu năm 1954, tôi đang học Trường Trung học Tiền Phong do Xứ đoàn Thanh niên cứu quốc Nam Bộ tổ chức thì có quyết định rút tôi về cơ quan Xứ đoàn để bảo vệ Ban Biên tập Báo Nhân Dân miền Nam, do anh Kỉnh (Nguyễn Phượng Vũ) và anh Hưởng Triều (Trần Bạch Ðằng) phụ trách.