ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 6-6-25 09:06:23
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Thầy giáo làng trong kháng chiến

Báo Cà Mau Quê chồng tôi ở ấp Bào Kè, xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước. Thỉnh thoảng trong những lần về quê, nhất là dịp đám tiệc đông người, tôi hay nghe nhắc về ông thầy giáo làng tên Giang (Lê Văn Giang) mà theo vai vế thân tộc, bà con lối xóm, nhiều người gọi cụ đến bằng ông chú, ông cố... Tất cả đều thừa nhận: “Cả xứ này nhờ ông mà nhiều người biết chữ”.

Khi tôi nói muốn tìm hiểu về ông cụ, bà Nguyễn Thị Nàng (58 tuổi), cháu dâu, gọi cụ bằng ông nội (hiện vợ chồng bà đảm nhận việc thờ cúng cụ tại ấp Năm Ðảm, xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước), ngẫm ngợi rồi tặc lưỡi: “Phải sớm hơn chừng vài năm trước thì còn nhiều người biết. Giờ những người lớn tuổi theo ông theo bà muốn hết rồi...”. 

Rồi bà đưa tôi đến gặp ông Lê Minh Quang (Bảy Quang, 82 tuổi, cùng ấp Năm Ðảm), mà theo bà, có thể còn biết tương đối về ông; bởi ngoài tuổi cao, ông Bảy Quang còn là cháu, gọi cụ bằng chú ruột, cũng coi như thế hệ lão làng còn lại.

Mừng là ông Bảy còn khá minh mẫn, nhưng ông nói ngay: “Ðoạn trước tôi không biết. Khi tôi lớn lên thì thấy ông đã đi dạy học từ đời nào rồi. Ông sinh năm 1890, cùng năm sinh với Bác Hồ. Hồi thiếu niên tôi có đi làm giao liên mật, biết ông hoạt động bí mật trong tổ Ðảng, còn cụ thể chức danh gì thì không rõ. Chỉ biết ông dạy học xuyên suốt tới khi mất, là năm 1972”.

Chân dung thầy giáo làng Lê Văn Giang.

Ông Bảy kể, ông học cụ năm 1958, tới lớp Nhì (tương đương lớp 4 ngày nay) thì đến tuổi quân dịch, ông nghỉ học, đi bộ đội. Ông Bảy cho biết, từ năm 1958 đến năm 1972, ông cụ phải dời trường học 3 lần. Ban đầu trường cất ở đập Bào Bèo (nơi có đồn địch), năm 1963 trường bị lính đốt, ông cụ bị lính bắt, bị đánh đập. “Hồi đó ông già tôi là anh ruột, nghe nói bán bộn lúa để lo, ông cụ mới được thả ra”, ông Bảy nhớ lại.

Sau khi được thả, cụ tiếp tục về phần đất gia đình, cách đó 5-6 cây số (trên tuyến sông Bào Kè nối với sông Bào Bèo) để cất trường dạy học tiếp. Ðến khoảng năm 1969, trường bị hư, cụ dời trở ra mấy cây số (cũng trên tuyến sông Bào Kè). “Các điểm trường đều nằm trên đất gia đình. Hồi đó, nghe nói gốc gác tôi ở miền Trung, tới đời ông nội vô khai phá mảnh đất này. Ðất hoang, rừng rậm, có sức bao nhiêu thì khai phá bấy nhiêu để sản xuất nên các cụ mới có nhiều đất vậy”, ông Bảy giảng giải.

Cũng theo ông Bảy, ông cụ dạy học không lấy tiền bạc của ai. Cất trường thì vận động cha mẹ học sinh đóng góp cây lá. Cụ xả cây gòn, cây còng, cây cau lấy ván làm bàn ghế. “Chương trình dạy cũng mỗi năm lên 1 lớp. Hồi đó không có sách giáo khoa, chỉ thấy ông soạn bài trong cuốn sổ rồi dạy. Ông dạy ngày 3 buổi: sáng, trưa, chiều, gồm các lớp khác nhau”, ông Bảy nhớ lại.

Ông Lê Minh Quang (cháu ruột) cũng coi như thế hệ lão làng còn lại, có hiểu biết tương đối về cụ Lê Văn Giang.

Cũng theo lời ông Bảy, hồi đó chiến tranh, điều kiện khó khăn, cũng không có lộ làng, đường sá gì. Mùa mưa, học sinh bơi xuồng đi học hoặc lội bộ dưới sình dưới nước men theo xóm đến trường, vì vậy mà trẻ em thường cỡ 10, 11, 12 tuổi trở lên mới đi học. “Vậy chứ mỗi lớp cũng mấy chục học sinh. Hồi đó nơi đây là xã Thạnh Phú, địa bàn xã lớn lắm, bao gồm cả xã Lương Thế Trân và Thạnh Phú bây giờ. Học trò không chỉ ở Bào Kè mà còn nhiều nơi tới học, như Cây Dương, Lung Cỏ, Nhà Phấn... Có nơi cách trường 5-7 cây số”, ông Bảy lần hồi nhớ lại.

“Có lúc ban ngày ông dạy học sinh nhỏ, ban đêm dạy xoá mù chữ cho người lớn. Hồi đó tôi về làm dâu, trường cất gần bên nhà này, mỗi tối, mỗi người xách 1 cây đèn lội tới học ì xèo, vui lắm! Mình lúc đó con nhỏ không có tham gia, nhưng mà bên này nghe dạy, cũng thuộc làu làu”, bà Hứa Thị Búi (77 tuổi, vợ ông Bảy), cũng góp vào câu chuyện. Ðó là khoảng năm 1963 trở về sau, lúc trường dời về, sau khi bị giặc đốt. 

“Nghe nói ông dạy học từ hồi còn thanh niên. Dân ở đây từ trên 60 đến hơn 90 tuổi hầu như học ông hết. Ông Ba Vinh, ông Hai Tảng (hơn 90 tuổi, đã mất), trước đây, khoảng năm 1971, 1972 người là Chủ tịch, người là Bí thư xã Thạnh Phú, đều là học trò của ông. Ở xóm này, có rất nhiều gia đình 2 thế hệ đều học ông".

Quay sang tôi, ông Bảy nhắc: "Theo chú biết, ba chồng cháu hồi đó cũng học ông, nói chung, bên chồng cháu nhiều người theo học chỗ ông”.

Ba chồng tôi là Liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Chung Thành Châu, nguyên Chính uỷ Trung đoàn 962. Trước, ông là Bí thư Huyện uỷ Cái Nước, rồi Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng ban Dân vận Tỉnh uỷ. Ông tham gia cách mạng năm 1947, như vậy chắc chắn ông học cụ trước thời gian này. Như vậy, cũng đồng nghĩa là cụ đã dạy học từ trước năm 1947.

Dĩ nhiên, sau này ba chồng tôi cũng như anh chị em chồng tôi đi làm cách mạng, tham gia công tác đều học thêm lên, nhưng cái nền biết chữ đầu tiên cũng chính là nhờ ông.

Tôi hẹn gặp thêm chồng bà Nàng, tức cháu nội, đang thờ cúng cụ, là ông Lê Văn Thôi (Út Thôi, 61 tuổi) và ông Nguyễn Anh Tuấn (Ba Tuấn, 70 tuổi, cùng ấp Năm Ðảm) để mong tìm thêm thông tin giai đoạn sau. Ông Ba Tuấn kể, ông học cụ từ năm 1966, 2 năm sau thì xảy ra sự kiện Tết Mậu Thân 1968, và ông tham gia địa phương quân nên không biết thêm. Ông Út Thôi thì học cụ năm 1969, thuộc thế hệ học trò của những lớp sau cùng được cụ dạy.

Ông Lê Văn Thôi (bìa trái, là cháu nội cụ Giang) và vợ là bà Nguyễn Thị Nàng (ngồi cạnh) cùng ông Nguyễn Anh Tuấn (bìa phải) cố gắng nhớ và kể lại những ký ức về cụ Lê Văn Giang.

Ông Ba Tuấn chỉ nhớ rằng, cụ giản dị, hiền từ, dạy dễ hiểu, vui tính; không có kiểu nổi giận, đập bàn đập ghế, hăm he hay đánh đập học sinh.

Ông Út Thôi thì nhớ: “Lúc đó ông dạy lớp ghép, độ hai mấy học sinh. Ông vui tính, khi dạy xong thường hát một bài bằng tiếng Pháp để cho học sinh vui”.

Cũng theo dòng hồi nhớ của ông Út Thôi: “Thấy ông cụ lớn tuổi, sức khoẻ kém mà dạy cực khổ quá, cha tôi khuyên nghỉ, nhưng ông cương quyết không chịu. Dạy đến qua Tết năm 1972 thì ông đổ bệnh. Ðến ngày 19/10/1972 thì ông mất, thọ 82 tuổi".

Nhìn thấy huân chương kháng chiến của ông chỉ được hạng Ba, tôi thắc mắc, vì thời gian cống hiến dài, công trạng của ông lại nhiều. Gia đình cho biết, do không rành việc làm báo công, phải nhờ tới lui nên muộn, những người biết về ông giai đoạn trước không còn. Tiếc thay!

Lại thêm những chiêm nghiệm rút ra từ cuộc sống. Ðôi khi vì những trì hoãn, chậm trễ, chúng ta mất đi nhiều cơ hội làm được điều tốt đẹp cho người thân, người có công trạng, hay để mất đi nhiều thông tin, tư liệu lịch sử quý báu mà không tìm lại được.

Và cũng từ câu chuyện về cụ, tôi biết thêm, thời kháng chiến, ở tỉnh ta không chỉ có những thầy cô được đào tạo cấp tốc để phổ cập nhanh kiến thức văn hoá cho các địa phương, mà còn có những thầy cô giáo tại thôn làng, âm thầm mang ánh sáng văn hoá đến cho người dân từ năm này đến năm khác, thế hệ này đến thế hệ khác, mà không nhận thù lao, lương bổng. Họ có những đóng góp ý nghĩa cho ngành giáo dục tỉnh nhà một thời, nhưng đôi khi không phải nhiều người, hay ngành chuyên môn đã biết và ghi nhận./.

 

Huyền Anh

 

"Chiếc nôi chung" thương nhớ, tự hào - Bài cuối: “Quê chúng ta Cà Mau”

Những ngày này, tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu đang tập trung khẩn trương cho công tác chuẩn bị hợp nhất thành tỉnh Cà Mau mới - một phiên bản được nâng cấp toàn diện, đầy kỳ vọng của Minh Hải xưa. Cà Mau - Bạc Liêu lại chung một mái nhà, một chiếc nôi với trọn vẹn những nghĩa tình, những khát vọng phát triển lớn lao, với sức vóc mạnh mẽ, thế và lực vững vàng ở địa đầu cực Nam Tổ quốc.

"Chiếc nôi chung" thương nhớ, tự hào

Khi chủ trương hợp nhất tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu thành tỉnh Cà Mau được công bố và thông tin rộng rãi, có một điều kỳ lạ đã diễn ra. Không có sự nuối tiếc, không hề âu lo, mà trái lại, đó là sự hào hứng, phấn chấn và đồng thuận cao độ của Nhân dân 2 tỉnh. Vậy là Cà Mau - Bạc Liêu lại về chung một mái nhà, chung một khát vọng, cộng hưởng và nhân lên sức mạnh, niềm tin để cùng nhau xây dựng vùng đất phía địa đầu cực Nam Tổ quốc bừng sáng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

"Chiếc nôi chung" thương nhớ, tự hào - Bài 2: Chặng đường 20 năm lịch sử

Tỉnh Minh Hải tồn tại trong 20 năm, từ 1976 đến hết năm 1996, vượt qua nhiều thách thức, trở ngại, kể cả những thời khắc hết sức gian khó để hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh lịch sử với những thành tựu hết sức to lớn, đặt nền tảng vững chắc cho đà ổn định, phát triển của 2 tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu, về sau này.

Cà Mau - Ðịa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài cuối: Bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc

Cà Mau hôm nay đổi mới, phát triển từng ngày. Những cán bộ lão thành cách mạng, những bậc cao niên ở Cà Mau mà chúng tôi có dịp gặp, đã trải qua bom đạn chiến tranh, trải qua những ngày tháng Cà Mau còn đầy khó khăn, tất cả đều nói rằng, Cà Mau mình bây giờ đã phát triển nhiều lắm, đời sống Nhân dân đã sung túc hơn trước bội phần. Từ vùng đất hoang vu, nê địa; từ những đau thương, mất mát lớn lao trong kháng chiến; đến nay, Cà Mau đã vươn mình đi lên bằng sức vóc mới, thế và lực mới, để chặng đường phát triển tương lai sẽ làm bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 4: Vùng đất của những sản vật vang danh

Dù lên rừng hay xuống biển, Cà Mau đều sẵn có những đặc sản trứ danh. Nếu chỉ nhắc đến đại khái, nhiều người sẽ chưa thoả dạ hoặc lòng còn hoài nghi, thắc mắc. Sự trù phú của thiên nhiên hoà quyện với quá trình lao động siêng năng, bền bĩ, đúc kết kinh nghiệm và sự sáng tạo tài hoa của lớp lớp con người Cà Mau đã kết tụ nên giá trị và sức sống lâu bền của những sản vật đặc trưng ở vùng đất mới.

Lưu Hữu Phước – Nhạc sĩ tài danh đất Tây Đô

Hai ba thế hệ người Việt Nam hát những ca khúc của nhạc sĩ tài danh Lưu Hữu Phước. Không có cuộc đời nào, tâm hồn nào trên đất nước Việt Nam thân yêu thế kỷ vệ quốc anh hùng mà không được Lưu Hữu Phước giục giã.

Ngày giải phóng Cà Mau

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 3: Bức tranh văn hoá đa sắc

Dù ở vùng đất mới, gốc gác khác biệt, song khi về tới Cà Mau, thế hệ tiền nhân đã sớm ý thức về nguồn cội, quần tụ và cố kết với nhau bằng sợi chỉ đỏ chảy xuyên suốt của nền văn hoá dân tộc Việt Nam bốn ngàn năm: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 2: Con người Cà Mau - Nét duyên xứ sở

Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng: “Con người là chủ thể văn hoá, cách ứng xử của con người với chính mình, với thiên nhiên và các mối quan hệ xã hội định hình nên đặc điểm và tính cách của nền văn hoá ấy”. Ở vùng đất mới Cà Mau, nếu không nói về con người Cà Mau, tính cách và cốt cách của con người Cà Mau thì quả thật là một điều thiếu sót lớn. Hồn cốt quê hương, khí phách của ông cha là nơi hậu thế soi chiếu vào đó để nhận diện được chính mình và khơi mở những chặng đường tương lai của mảnh đất này.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc

Khi Báo Cà Mau đăng loạt ghi chép pha chút hơi hướng khảo cứu này, tỉnh Cà Mau đang hừng hực khí thế, với thế và lực mới vững vàng hoà vào dòng chảy thời đại cùng cả dân tộc, đất nước Việt Nam tiến bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển phồn thịnh, giàu mạnh, hạnh phúc.