Thứ năm, 18-9-25 22:40:25
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Thầy tiếc cây kim máy hơn những giọt máu

Báo Cà Mau Cách đây 40 năm, đó là những ngày cuối của năm 1974, tại lớp học của cô Bình ở Bào Dừa, hai chị em của em là Huỳnh Lê và Huỳnh Ðào nhập học. Do vào trường những ngày gần Tết nên khi thầy, cô may đồ Tết cho các bạn, 2 em không có phần vải. Nghe cô Bình bàn với thầy Trung: “Sẽ tận dụng vải bên hông, cắt ống hẹp lại để mót cho Huỳnh Lê, Huỳnh Ðào đứa một cái quần”, em mừng vô cùng! Ðồ Tết của tụi em là một cái quần ni-lông đen.

Cách đây 40 năm, đó là những ngày cuối của năm 1974, tại lớp học của cô Bình ở Bào Dừa, hai chị em của em là Huỳnh Lê và Huỳnh Ðào nhập học. Do vào trường những ngày gần Tết nên khi thầy, cô may đồ Tết cho các bạn, 2 em không có phần vải. Nghe cô Bình bàn với thầy Trung: “Sẽ tận dụng vải bên hông, cắt ống hẹp lại để mót cho Huỳnh Lê, Huỳnh Ðào đứa một cái quần”, em mừng vô cùng! Ðồ Tết của tụi em là một cái quần ni-lông đen.

Buổi sáng, thầy, cô đi dạy, tụi em đi học. Trưa về cô Bình cắt, thầy Ða và thầy Trung may. May luôn đến đêm để còn kịp phát cho tụi em về mặc Tết. Cắt, may ngay tại chỗ ở của cô Bình (cô ở chung với tất cả bọn con gái tụi em). Ngày Tết gần kề, sợ đồ may không kịp nên chiều chạng vạng hôm đó, cô nói: “Hai thầy may đua đi cho nhanh”. Hai thầy đồng ý.

Thầy Ða nói: “Tôi may một cái quần trong 10 phút”.

Thầy Trung bảo: “Tôi may trong 7 phút”.

Thầy Ða: “Tôi may trong 5 phút”.           

Thầy Trung: “Ðồng ý luôn. Tôi may quần Lý Kim Tiến”.

Thầy Ða: “Tôi may quần Huỳnh Ðào, nhỏ hơn, may mau thắng ông chắc luôn”. Chị Huệ đi đốt thêm đèn con cóc và cuộc thi may quần lặng lẽ trong đêm bên ánh đèn dầu được bắt đầu. Cô Bình vừa là thợ cắt vừa là trọng tài, mấy đứa con gái tụi em ngồi bên bộ vạt đối diện với thầy, cô đang im lặng dõi theo làm cổ động viên cho 2 thầy. Em nôn nóng đồ mới quá, nên đã bước xuống đất đi tới, đi lui, chỉ mong thầy Ða may xong là mặc thử liền.   

Bỗng, rốp! Một tiếng động nhỏ đủ phá tan sự im lặng. “Kim gãy Bình ơi!”, thầy Ða hốt hoảng la lên. Thầy Trung liền hỏi: “Có sao hôn?”. Không có tiếng trả lời. Tất cả chúng em hướng mắt nhìn thầy Ða, rồi nhìn chỗ cây kim máy của thầy. Cây kim đã gãy đôi, nửa phần dưới đâm thẳng vào đầu ngón tay trỏ trái của thầy, phần còn lại còn dính trong máy may.

Thầy dùng tay phải lăn bánh xe đầu máy, nhấc chân vịt, gỡ phần trên kim ra rồi thầy mới rút phần kim bị gãy còn đang đâm ở đầu ngón tay ra. Máu ứa ra nhiễu liền giọt trên bàn máy, cô Bình quýnh lên, vội đi tìm vải băng cho thầy. Còn thầy thì cứ cầm 2 khúc gãy của cây kim đem so lại, kề sát lại, muốn nó dính liền, dù biết đó là điều không thể, mặc cho máu trên đầu ngón tay cứ nhiễu. Trái tim của chúng em se thắt lại vì thương thầy bị đau. Còn thầy mặt buồn rười rượi, vì tiếc cây kim.

Ngày đó chúng em chưa đủ lớn khôn để hiểu rằng, 1 cây kim may máy trước ngày giải phóng là điều không dễ có, và càng chưa hiểu đươc nỗi lo “gãy cây kim sẽ may đồ không kịp cho chúng em mặc Tết”, nỗi lo lớn bao trùm ở trong lòng thầy.

Thưa thầy, đã bốn mươi năm trôi qua, có lẽ thầy không còn nhớ về câu chuyện này? Nhưng câu chuyện rất thật, rất đời thường, bình dị, gần gũi mà vô cùng thiêng liêng cao đẹp về tấm lòng của thầy đã mãi mãi ghi khắc trong lòng của mỗi chúng em trong suốt cuộc đời này.

 Mười năm sau (1984)

Em đang xếp hàng rồng rắn để chờ lãnh cơm ở nhà ăn của Trường Ðại học Sư phạm Kỹ thuật TP Hồ Chí Minh, bất ngờ thấy thầy từ xa. Em chui vội dưới cây sắt cản ngang bên hông để xếp hàng, chạy về phía thầy, gọi: “Thầy, thầy, thầy, thầy ơi! Thầy…”. Thầy trò nhận ra đang học cùng khoá trong một trường đại học. Em mừng vui quá nên chỉ đứng nhìn, không biết hỏi thêm gì. Chợt thầy hỏi em: “Cái chân bị gì mà cà nhắc vậy?”. “Dạ, hôm qua em đi chợ chiều bị chó cắn”, em trả lời. Thầy hỏi em ở phòng mấy…

Ăn cơm trưa xong được một lúc, nghe có người tìm ngoài cửa, thầy đứng vịn xe đạp tìm em. Thầy nói: “Lên xe thầy chở đi chích ngừa”. Từ trường đến Bệnh viện huyện Thủ Ðức xa tới mấy cây số, vậy mà cứ đến hẹn của bệnh viện, thầy đến chở em đi cho đến đủ 5 lần chích mới thôi. Ở vùng đất đỏ miền Ðông này, buổi trưa nắng như đổ lửa, gió thổi cát và đất đỏ cuộn lên mù mịt, đường dốc cao, chiếc xe đạp của thầy lỏng sên, kêu rẹt… rẹt. Khi lên dốc, thầy cong lưng đạp, những cái dốc cao, dốc dài vắt kiệt sức thầy. Em mong sao nhanh xuống dốc để thầy có thể lấy lại chút sức lực, để rồi lại lên dốc. Nhưng mỗi khi đến đỉnh dốc, thì thầy dừng xe, dẫn bộ xuống. Thầy nói: Xe lỏng sên quá, xuống dốc nguy hiểm lắm, chân em bị đau cứ ngồi im đó. Thầy dẫn xe xuống hết dốc, lại cong lưng đạp lên dốc. Cả đi và về đến 10 lần trên con đường dài này, không có lần nào xe được thả dốc…

Thưa thầy! Thầy là ai? Là cha, là mẹ hay là ông Tiên? Ngày trước khi còn học dưới mái Trường Nội trú Cà Mau - Ninh Bình, thầy, cô đã thay cha, thay mẹ chăm sóc chúng em, còn giờ đây em đã xa tầm tay thầy, cô về với mẹ, cha đã lâu, vậy mà khi em gặp khó khăn, thì tấm lòng bao dung, nhân hậu ấy luôn hiện hữu và dắt dìu, nâng đỡ em…

Không phải chỉ có riêng em, mà các bạn học sinh Trường Nội trú Cà Mau - Ninh Bình em cũng đều được soi sáng bởi tình yêu thương, lòng nhân hậu của thầy. Một việc làm mà với  thầy là rất bình thường: Chở học sinh cũ đi chích ngừa, nhưng thầy chắc không biết rằng, thầy đã cứu sống em. Thầy có biết không, sau đó, con chó cắn em đã chết vì bị dại.

Thưa thầy! Em không có đủ câu từ nào nói hết công ơn của  thầy đối với em, bởi vì đi khắp thế gian này, có mấy ai có được người thầy như thầy của em! Tình cảm và công ơn thầy mãi mãi là hành trang trong em suốt cuộc đời này. Em muốn nói một câu rất chân thành với tất cả mọi người rằng: “Thầy của em là người rất vĩ đại!"./.

Huỳnh Ðào, học sinh khoá 3, 4, Trường Nội trú Cà Mau - Ninh Bình

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.