ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 3-7-25 10:52:15
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Thầy tiếc cây kim máy hơn những giọt máu

Báo Cà Mau Cách đây 40 năm, đó là những ngày cuối của năm 1974, tại lớp học của cô Bình ở Bào Dừa, hai chị em của em là Huỳnh Lê và Huỳnh Ðào nhập học. Do vào trường những ngày gần Tết nên khi thầy, cô may đồ Tết cho các bạn, 2 em không có phần vải. Nghe cô Bình bàn với thầy Trung: “Sẽ tận dụng vải bên hông, cắt ống hẹp lại để mót cho Huỳnh Lê, Huỳnh Ðào đứa một cái quần”, em mừng vô cùng! Ðồ Tết của tụi em là một cái quần ni-lông đen.

Cách đây 40 năm, đó là những ngày cuối của năm 1974, tại lớp học của cô Bình ở Bào Dừa, hai chị em của em là Huỳnh Lê và Huỳnh Ðào nhập học. Do vào trường những ngày gần Tết nên khi thầy, cô may đồ Tết cho các bạn, 2 em không có phần vải. Nghe cô Bình bàn với thầy Trung: “Sẽ tận dụng vải bên hông, cắt ống hẹp lại để mót cho Huỳnh Lê, Huỳnh Ðào đứa một cái quần”, em mừng vô cùng! Ðồ Tết của tụi em là một cái quần ni-lông đen.

Buổi sáng, thầy, cô đi dạy, tụi em đi học. Trưa về cô Bình cắt, thầy Ða và thầy Trung may. May luôn đến đêm để còn kịp phát cho tụi em về mặc Tết. Cắt, may ngay tại chỗ ở của cô Bình (cô ở chung với tất cả bọn con gái tụi em). Ngày Tết gần kề, sợ đồ may không kịp nên chiều chạng vạng hôm đó, cô nói: “Hai thầy may đua đi cho nhanh”. Hai thầy đồng ý.

Thầy Ða nói: “Tôi may một cái quần trong 10 phút”.

Thầy Trung bảo: “Tôi may trong 7 phút”.

Thầy Ða: “Tôi may trong 5 phút”.           

Thầy Trung: “Ðồng ý luôn. Tôi may quần Lý Kim Tiến”.

Thầy Ða: “Tôi may quần Huỳnh Ðào, nhỏ hơn, may mau thắng ông chắc luôn”. Chị Huệ đi đốt thêm đèn con cóc và cuộc thi may quần lặng lẽ trong đêm bên ánh đèn dầu được bắt đầu. Cô Bình vừa là thợ cắt vừa là trọng tài, mấy đứa con gái tụi em ngồi bên bộ vạt đối diện với thầy, cô đang im lặng dõi theo làm cổ động viên cho 2 thầy. Em nôn nóng đồ mới quá, nên đã bước xuống đất đi tới, đi lui, chỉ mong thầy Ða may xong là mặc thử liền.   

Bỗng, rốp! Một tiếng động nhỏ đủ phá tan sự im lặng. “Kim gãy Bình ơi!”, thầy Ða hốt hoảng la lên. Thầy Trung liền hỏi: “Có sao hôn?”. Không có tiếng trả lời. Tất cả chúng em hướng mắt nhìn thầy Ða, rồi nhìn chỗ cây kim máy của thầy. Cây kim đã gãy đôi, nửa phần dưới đâm thẳng vào đầu ngón tay trỏ trái của thầy, phần còn lại còn dính trong máy may.

Thầy dùng tay phải lăn bánh xe đầu máy, nhấc chân vịt, gỡ phần trên kim ra rồi thầy mới rút phần kim bị gãy còn đang đâm ở đầu ngón tay ra. Máu ứa ra nhiễu liền giọt trên bàn máy, cô Bình quýnh lên, vội đi tìm vải băng cho thầy. Còn thầy thì cứ cầm 2 khúc gãy của cây kim đem so lại, kề sát lại, muốn nó dính liền, dù biết đó là điều không thể, mặc cho máu trên đầu ngón tay cứ nhiễu. Trái tim của chúng em se thắt lại vì thương thầy bị đau. Còn thầy mặt buồn rười rượi, vì tiếc cây kim.

Ngày đó chúng em chưa đủ lớn khôn để hiểu rằng, 1 cây kim may máy trước ngày giải phóng là điều không dễ có, và càng chưa hiểu đươc nỗi lo “gãy cây kim sẽ may đồ không kịp cho chúng em mặc Tết”, nỗi lo lớn bao trùm ở trong lòng thầy.

Thưa thầy, đã bốn mươi năm trôi qua, có lẽ thầy không còn nhớ về câu chuyện này? Nhưng câu chuyện rất thật, rất đời thường, bình dị, gần gũi mà vô cùng thiêng liêng cao đẹp về tấm lòng của thầy đã mãi mãi ghi khắc trong lòng của mỗi chúng em trong suốt cuộc đời này.

 Mười năm sau (1984)

Em đang xếp hàng rồng rắn để chờ lãnh cơm ở nhà ăn của Trường Ðại học Sư phạm Kỹ thuật TP Hồ Chí Minh, bất ngờ thấy thầy từ xa. Em chui vội dưới cây sắt cản ngang bên hông để xếp hàng, chạy về phía thầy, gọi: “Thầy, thầy, thầy, thầy ơi! Thầy…”. Thầy trò nhận ra đang học cùng khoá trong một trường đại học. Em mừng vui quá nên chỉ đứng nhìn, không biết hỏi thêm gì. Chợt thầy hỏi em: “Cái chân bị gì mà cà nhắc vậy?”. “Dạ, hôm qua em đi chợ chiều bị chó cắn”, em trả lời. Thầy hỏi em ở phòng mấy…

Ăn cơm trưa xong được một lúc, nghe có người tìm ngoài cửa, thầy đứng vịn xe đạp tìm em. Thầy nói: “Lên xe thầy chở đi chích ngừa”. Từ trường đến Bệnh viện huyện Thủ Ðức xa tới mấy cây số, vậy mà cứ đến hẹn của bệnh viện, thầy đến chở em đi cho đến đủ 5 lần chích mới thôi. Ở vùng đất đỏ miền Ðông này, buổi trưa nắng như đổ lửa, gió thổi cát và đất đỏ cuộn lên mù mịt, đường dốc cao, chiếc xe đạp của thầy lỏng sên, kêu rẹt… rẹt. Khi lên dốc, thầy cong lưng đạp, những cái dốc cao, dốc dài vắt kiệt sức thầy. Em mong sao nhanh xuống dốc để thầy có thể lấy lại chút sức lực, để rồi lại lên dốc. Nhưng mỗi khi đến đỉnh dốc, thì thầy dừng xe, dẫn bộ xuống. Thầy nói: Xe lỏng sên quá, xuống dốc nguy hiểm lắm, chân em bị đau cứ ngồi im đó. Thầy dẫn xe xuống hết dốc, lại cong lưng đạp lên dốc. Cả đi và về đến 10 lần trên con đường dài này, không có lần nào xe được thả dốc…

Thưa thầy! Thầy là ai? Là cha, là mẹ hay là ông Tiên? Ngày trước khi còn học dưới mái Trường Nội trú Cà Mau - Ninh Bình, thầy, cô đã thay cha, thay mẹ chăm sóc chúng em, còn giờ đây em đã xa tầm tay thầy, cô về với mẹ, cha đã lâu, vậy mà khi em gặp khó khăn, thì tấm lòng bao dung, nhân hậu ấy luôn hiện hữu và dắt dìu, nâng đỡ em…

Không phải chỉ có riêng em, mà các bạn học sinh Trường Nội trú Cà Mau - Ninh Bình em cũng đều được soi sáng bởi tình yêu thương, lòng nhân hậu của thầy. Một việc làm mà với  thầy là rất bình thường: Chở học sinh cũ đi chích ngừa, nhưng thầy chắc không biết rằng, thầy đã cứu sống em. Thầy có biết không, sau đó, con chó cắn em đã chết vì bị dại.

Thưa thầy! Em không có đủ câu từ nào nói hết công ơn của  thầy đối với em, bởi vì đi khắp thế gian này, có mấy ai có được người thầy như thầy của em! Tình cảm và công ơn thầy mãi mãi là hành trang trong em suốt cuộc đời này. Em muốn nói một câu rất chân thành với tất cả mọi người rằng: “Thầy của em là người rất vĩ đại!"./.

Huỳnh Ðào, học sinh khoá 3, 4, Trường Nội trú Cà Mau - Ninh Bình

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.