ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 7-6-25 16:51:40
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Thời kháng chiến, tác phẩm văn học là vũ khí sắc bén

Báo Cà Mau Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, sau tổng khởi nghĩa 1945, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu), lực lượng thông tin, báo chí, văn nghệ, công nhân Nhà in Sao Vàng… đều quy tụ vào đầu mối là Ty Thông tin. Ty Thông tin Bạc Liêu từ khi thành lập đến ngày ký kết Hiệp định Geneva, phần lớn thời gian do ông Huỳnh Ngọc Thái làm Trưởng ty, với không tới 25 cán bộ, công nhân.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, sau tổng khởi nghĩa 1945, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu), lực lượng thông tin, báo chí, văn nghệ, công nhân Nhà in Sao Vàng… đều quy tụ vào đầu mối là Ty Thông tin. Ty Thông tin Bạc Liêu từ khi thành lập đến ngày ký kết Hiệp định Geneva, phần lớn thời gian do ông Huỳnh Ngọc Thái làm Trưởng ty, với không tới 25 cán bộ, công nhân.

Sau Hiệp định Geneva, ta chuyển hướng vào đấu tranh chính trị, số cán bộ, công nhân này được phân tán. Một bộ phận làm công nhân in của Nhà in “Hoá Trang” tại chùa Cao Dân và Ngọc Sắc, xã Tân Lợi; một bộ phận khác làm báo, làm văn nghệ, với tờ báo “Hoà bình thống nhất” do Trần Ngọc Hy là cán bộ báo chí của Tỉnh uỷ phụ trách Trưởng Ban Biên tập. Tờ báo này dành phần lớn diện tích in thơ, hò, vè, ca dao, câu chuyện, bút ký, truyện.

Văn nghệ Lúa Vàng được xuất bản kỳ đầu tiên tháng 5/1966. 

(Ảnh Hoàng Vũ chụp lại)

Tờ báo “Hoà bình thống nhất” bí mật đến nhiều đối tượng cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, huyện, xã, cán bộ cốt cán nằm vùng, đến với quần chúng cách mạng. Trong thời gian đấu tranh bí mật, Ban Biên tập Báo “Hoà bình thống nhất” vừa chú trọng đưa tác phẩm văn học lên tờ báo, vừa động viên anh em cán bộ báo chí viết những tác phẩm có độ dài và tập hợp những tác phẩm văn học trên sách báo của Trung ương có tác dụng giáo dục tư tưởng, in thành những cuốn sách rời để phát hành rộng rãi.

Từ các năm 1956, 1957, 1958, 1959, bộ phận báo chí in bột truyện “Vượt côn đảo” của Nhà văn Phùng Quán mấy trăm trang, in trường ca “Ba mươi năm đời ta có Ðảng” của Tố Hữu, in truyện ngắn “Người lính điên” và truyện vừa “Hận thù” của Tam Nghị… Thời kỳ đấu tranh bí mật, trên lĩnh vực văn học không có tập văn nghệ riêng, những tác phẩm văn học không in thành tạp chí hay tờ báo văn nghệ hẳn hoi, chỉ được in xen vào tờ báo chính trị cơ quan ngôn luận đảng bộ trong đấu tranh bí mật và in rời từng tác phẩm. Tác phẩm văn học lúc bấy giờ đến nhiều đối tượng, trở thành vũ khí sắc bén giữ vững tinh thần, tư tưởng, ý chí chiến đấu và niềm tin vào ngày chiến thắng quân thù Mỹ - Diệm tàn bạo. Những tác phẩm văn học lúc bấy giờ đến tay đối tượng được cất giữ bí mật, chuyền tay nhau đọc đến nhàu nát.

Sau Ðồng khởi 1960, đến các năm 1961, 1962, 1963, tác phẩm văn học được sử dụng bằng hai phương thức, một mở chuyên trang trong tờ Báo Cà Mau giải phóng, hai là in thành tập gồm những bài ký, truyện ngắn, thơ, ca dao, hò, vè, lời ca cổ nhạc. Mặc dù sau Ðồng khởi 1960, tỉnh Cà Mau thành lập Hội Văn nghệ giải phóng do ông Nguyễn Hải Tùng làm chủ tịch, tuy nhiên, từ năm 1960-1964, ở Ban Tuyên huấn tỉnh cũng thành lập Tiểu Ban Báo chí - Văn nghệ (chủ yếu là văn học). Tiểu ban này xuất bản tờ Báo Cà Mau giải phóng và tập Văn nghệ Cà Mau, bìa in tựa bài chính trong tập.

Như năm 1961, tập Văn nghệ Cà Mau lấy tên “Ký ức tuổi thơ” là bài tuỳ bút của Nhà văn Bùi Ðức Ái và bìa của tập văn nghệ này là tranh minh hoạ bài "Ký ức tuổi thơ" của Hoạ sĩ Nguyễn Xuân Bắc. Trong thời gian này, lực lượng Tiểu ban Báo chí - Văn nghệ phát triển khá mạnh, đông về số, mạnh về chất, hầu hết cán bộ, phóng viên đều viết báo và viết tác phẩm văn học nên chất lượng cả tờ Báo Cà Mau giải phóng và tập Văn nghệ Cà Mau đều được nâng cao.

Năm 1965, Ban Tuyên huấn Cà Mau tách Tiểu ban Báo chí - Văn nghệ ra thành lập hai tiểu ban: Tiểu ban Thông tấn - Báo chí và Tiểu ban Văn nghệ. Khi mới thành lập, Tiểu ban Văn nghệ do ông Nguyễn Kiên Ðịnh nhận chức vụ Phó Tiểu ban trực tiếp lãnh đạo bộ phận văn học. Bộ phận văn học gồm có Nguyễn Xuân Bắc, Thanh Minh, Nguyễn Thanh. Với lực lượng này làm nòng cốt, có sự hỗ trợ của phóng viên trên Tiểu ban Thông tấn - Báo chí và tập hợp lực lượng cộng tác viên ở cơ quan cấp tỉnh, huyện, Tiểu ban Văn nghệ quyết định cho ra đời tập văn nghệ phát hành định kỳ hằng tháng, mang tên “Văn nghệ Lúa Vàng”.

Tập “Văn nghệ Lúa Vàng” số đầu tiên ra tháng 5/1966, kỷ niệm sinh nhật Bác. Ngay từ số đầu tiên này, “Văn nghệ Lúa Vàng” có nhiều thể loại văn học, số lượng bài tăng lên, chất lượng nội dung và hình thức khá. Nội dung bám sát phong trào sản xuất, phong trào nông dân đóng đảm phụ, phong trào thanh niên tòng quân nhập ngũ, phản ánh chiến công diệt ác, phá tề, tiêu diệt đồn bót, chống địch dồn dân quy khu, phát động quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược trở về ruộng vườn.

Trong giai đoạn này, Ban Biên tập giữ vững ra tờ “Văn nghệ Lúa Vàng” theo định kỳ hằng tháng và theo các trọng tâm công tác, cho in những cuốn văn nghệ “miễn” để phục vụ kịp thời. Tác phẩm văn học thời này vừa bám chặt nhu cầu của kháng chiến, vừa nâng cao tính nghệ thuật, thẩm mỹ. Xin nêu vài ví dụ: Truyện ngắn “Mối tình năm cũ” của Nguyễn Mai; bút ký “Cuốn sổ tay” của Nguyễn Mai; thơ “Về quê bạn” của Nguyễn Mai; truyện ký “Người đảng viên mù” của Nguyễn Xuân Bắc; bút ký “Trên đất Gò Muồng” của Nguyễn Xuân Bắc; thơ “Em gái đùa đường” của Nguyễn Xuân Bắc; bút ký “Trên đồng Phong Thạnh” của Nguyễn Thanh; ghi chép “Tiền phong kể chuyện đánh giặc” của Thanh Minh; ghi chép “Trên tuyến lộ Vòng Cung” của Thanh Minh; thơ “Qua bến cũ” của Thanh Minh…

Thời kỳ này, mỗi người trong Ban Biên tập vừa tích cực làm nhiệm vụ biên tập, vừa bám sát các phong trào cách mạng quần chúng và bám sát chiến trường để có tác phẩm nóng bỏng của cuộc chiến đấu. Mặt khác, tập hợp nhiều tác phẩm của phóng viên Tiểu ban Thông tấn - Báo chí và cộng tác viên nên tác phẩm văn học in trên “Văn nghệ Lúa Vàng” rất phong phú và khá sắc sảo, phản ánh mọi lĩnh vực cuộc chiến đấu của quân, dân ta đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ trên quê hương Cà Mau anh hùng.

Sau tổng tấn công mùa xuân 1968, lực lượng biên tập, phóng viên tập “Văn nghệ Lúa Vàng” lần lượt được bổ sung khá đông đảo: Nguyễn Xuân Bắc, Trưởng Ban Biên tập; Nguyễn Thanh, Thanh Minh, cán bộ biên tập kiêm phóng viên và các phóng viên: Quang Thắng, Quân Phong, Dương Thuỳ, Lê Anh, Duy Vinh…

Những năm từ 1968-1974, nhiệm vụ trọng tâm của tập “Văn nghệ Lúa Vàng” là phản ánh phong trào quân, dân chống giặc phản kích, chống giặc bình định cấp tốc tràn ngập lãnh thổ sau Hiệp định Paris, giành dân, giữ đất, giữ vùng giải phóng… Năm 1970, nhận lệnh của Tỉnh uỷ, Tiểu ban Văn nghệ - tập “Văn nghệ Lúa Vàng” được điều từ kinh Ông Ðơn, kinh 17 rừng đước Năm Căn về bám trụ đồng bằng huyện Cái Nước để phục vụ yêu cầu đánh giặc bình định, cho đến năm 1973-1974 đánh giặc “tràn ngập lãnh thổ”.

Mặc dù phải chịu đựng dưới làn mưa bom bão đạn, nhưng đội ngũ cán bộ biên tập “Văn nghệ Lúa Vàng” trụ vững, đảm bảo công việc viết bài, công việc biên tập làm cho tập “Văn nghệ Lúa Vàng” ra đều kỳ, đảm bảo số lượng và giữ vững chất lượng, nâng cao sức chiến đấu. Trong cuộc chiến đấu đầy gian khổ, chống giặc bình định, tràn ngập lãnh thổ, tập “Văn nghệ Lúa Vàng” vững vàng trên trận địa chiến đấu và tác phẩm văn học ở Cà Mau càng trở nên một thứ vũ khí cực kỳ sắc bén vận động cách mạng và là mũi nhọn chống giặc đầy hiệu quả.

Những ngày đầu tiếp thu thị xã Cà Mau, tập “Văn nghệ Lúa Vàng” được mang một diện mạo mới: Ngoài số cán bộ biên tập, phóng viên trước nay, giờ có thêm đội ngũ cộng tác viên trước đây là công chức, giáo chức chế độ cũ và khá đông học sinh viết bài cho tập “Văn nghệ Lúa Vàng”. Tập “Văn nghệ Lúa Vàng” tăng trang, rút định kỳ, tăng số lượng, góp phần ổn định tình hình về chính trị, xã hội, về mọi mặt đời sống Nhân dân trong một thị xã vừa về với cách mạng.

Từ năm 1960, tác phẩm văn học ở Cà Mau vẫn tiếp tục hai phương thức đăng tải: xuất bản tập “Văn nghệ Lúa Vàng” và mở chuyên trang văn nghệ trên Báo Cà Mau giải phóng đến năm 1975. Suốt thời kỳ đánh Mỹ, trong từng giai đoạn cách mạng khác nhau, nhưng tác phẩm văn học ở Cà Mau luôn thể hiện là một thứ vũ khí sắc bén trong vận động cách mạng và đấu tranh chống kẻ thù..

Phạm Văn Tri

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.