ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 7-7-25 07:41:46
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Trận dánh bao vây bức rút Chi khu Năm Căn năm 1968

Báo Cà Mau Thực hiện kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của tỉnh, huyện Duyên Hải (nay là huyện Năm Căn) hạ quyết tâm bao vây bức rút Chi khu Năm Căn - một cứ điểm quan trọng của địch trên địa bàn huyện, nhằm kéo căng lực lượng của địch, không để địch điều quân chi viện, tạo điều kiện thuận lợi để lực lượng ta tiến công vào thị xã Cà Mau.

Bao vây bức rút Chi khu Năm Căn (1968). Ảnh tư liệu

Chi khu Năm Căn án ngữ ngã ba sông Cửa Lớn (sông Năm Căn) và sông Cái Nai. Ðể thực hiện bao vây bức rút Chi khu Năm Căn, Huyện uỷ thành lập Ban Chỉ huy tiền phương gồm: Ðồng chí Huỳnh Văn Tửu (Tám Bông), Bí thư Huyện uỷ, Chính trị viên Huyện đội, làm Trưởng ban; đồng chí Lê Tòng Bá (Út Ðiệp), Uỷ viên Ban Thường vụ Huyện uỷ, Huyện đội trưởng, làm Phó ban. Huyện đội phân công lực lượng thực hiện bao vây bức rút Chi khu Năm Căn gồm: Trung đội Bộ binh do đồng chí Phạm Quốc Quân (Út Quân) làm Trung đội trưởng, đồng chí Võ Văn Oanh (Năm Chóp) làm Chính trị viên, đồng chí Trần Vũ Phúc làm Trung đội phó; Trung đội Pháo binh do đồng chí Lý Văn Tửng (Tư Tửng) làm Trung đội trưởng, trang bị DKZ 75 mm, cối 60 mm; Trung đội Phòng không do đồng chí Nguyễn Văn Dí (Ba Thành) làm Trung đội trưởng, trang bị súng máy 7,62 mm; 1 Phân đội Trinh sát đặc công.

Bộ đội huyện, du kích các xã hợp đồng chiến đấu, luân phiên chốt giữ các mũi chiến hào. Các ngành, đoàn thể cấp huyện, các xã huy động luân phiên hàng ngàn lượt dân công cùng bộ đội đào chiến hào, công sự và xây dựng lán trại, trạm cứu thương, kho dã chiến để bao vây tấn công địch. Các mẹ và chị em phụ nữ được huy động làm công tác bảo đảm hậu cần, tiếp tế, cứu thương. Công tác chuẩn bị về vũ khí, đạn dược và lương thực, thực phẩm được nhanh chóng chuyển ra tiền tuyến với khẩu hiệu “Tất cả để chiến thắng!”, “Tất cả để giải phóng Năm Căn!”.

Theo kế hoạch đã thống nhất, đêm 30, rạng sáng 31/1/1968, quân dân ta đồng loạt tổng tiến công và nổi dậy trên 3 vùng: đô thị, nông thôn, miền núi và khắp các chiến trường miền Nam. Tại Cà Mau, các lực lượng vũ trang đồng loạt tiến công vào thị xã, thị trấn và một số cứ điểm quận lỵ quan trọng trong tỉnh.

Tại huyện Duyên Hải, các mũi chiến hào thực hiện bao vây Chi khu Năm Căn gồm: mũi hướng Ðông do xã Năm Căn đảm trách; mũi hướng Tây do xã Tân Ân và Nguyễn Huân đảm trách; mũi hướng Nam do xã Viên An đảm trách. Ta cắt đứt mọi con đường tiếp tế của địch, đồng thời tăng cường bao vây, pháo kích, bắn tỉa, ghìm địch suốt ngày đêm trong công sự, làm cho địch thương vong ngày càng nhiều, thiếu lương thực, thực phẩm, nước uống, tinh thần binh lính hoang mang cao độ. Các mũi chiến hào ngày càng phát triển, lấn dần, áp sát Chi khu Năm Căn và các đồn bảo vệ chi khu tại Cầu Sắt, kênh Xáng Cụt và vàm Ông Quyến.

Trước sức ép bao vây ngày càng lớn của ta, cuối tháng 2/1968, trung đội dân vệ của địch đóng đồn Ông Quyến do thượng sĩ Tình chỉ huy, đã lợi dụng đêm tối bỏ đồn vượt sông Cửa Lớn dồn quân tiếp tế cho địch ở Chi khu Năm Căn.

Ðể tiếp tục tạo bước đột phá tấn công, uy hiếp địch bị bao vây tại Chi khu Năm Căn, Huyện đội Duyên Hải giao nhiệm vụ cho cán bộ tham mưu, chỉ huy các đơn vị địa phương quân huyện nghiên cứu thực địa, lập phương án đánh tiêu diệt đồn tam giác kiên cố cấp trung đội của địch. Mục tiêu đầu tiên là đồn kênh Xáng Cụt, đồn tiền tiêu hướng Tây của Chi khu Năm Căn.

Chi khu Năm Căn. Ảnh Tư liệu

Ðêm 3/3/1968, bộ đội địa phương huyện dùng súng DKZ 75 mm bắn diệt lô cốt đầu cầu để các tổ xung kích đánh chiếm cửa mở và phát triển bên trong đồn kênh Xáng Cụt. Ðồng chí Phạm Quốc Quân, Trung đội trưởng, mũi trưởng xung kích bị thương nhưng rất dũng cảm xông vào đồn diệt địch, thu được 3 khẩu súng và rút lui an toàn. Kết thúc trận đánh, ta diệt nhiều tên địch, thu nhiều đạn dược và quân trang quân dụng; ta hy sinh đồng chí Lâm Quốc Lộc, Tiểu đội trưởng Ðặc công. Ðây là lần đầu tiên bộ đội huyện với những cán bộ, chiến sĩ rất trẻ là du kích xã mới rút lên huyện hơn 10 ngày đã đánh tiêu diệt đồn tam giác kiên cố, binh hoả lực rất mạnh và sát Chi khu Năm Căn, lập chiến công to lớn. Sau trận này, đồng chí Phạm Quốc Quân được Tỉnh đội tặng 2 bằng khen về thành tích diệt đồn, giết giặc và thu vũ khí.

Trước sức ép dữ dội của ta, địch ở bên trong Chi khu Năm Căn bị khủng hoảng tinh thần, nhiều lần xin chi viện nhưng địch ở Tiểu khu An Xuyên bất lực, buộc Quân đoàn 4 thuộc Vùng 4 chiến thuật phải dùng máy bay lên thẳng đổ quân ứng cứu. Khi địch vừa xuống mặt đất, lực lượng của ta nổ súng tiến công, diệt tại chỗ nhiều tên, bắn rơi 2 máy bay và bị thương 3 chiếc khác, buộc địch phải bốc quân tháo chạy.

Trước tình hình đó, ngày 18/4/1968, binh lính còn lại ở Chi khu Năm Căn lợi dụng đêm tối tháo chạy về Ðầm Cùng. Lực lượng ta tiến lên san bằng Chi khu Năm Căn và các đồn bót địch trong khu vực, thu 20 súng, trong đó có 1 súng cối 81 mm, quân trang, quân dụng và nhiều giấy tờ, tài liệu quan trọng. Huyện Duyên Hải được hoàn toàn giải phóng, Chi khu Năm Căn bị san bằng, tin vui được truyền đi khắp nơi trong tỉnh, cổ vũ tinh thần quân dân trong tỉnh tập trung bao vây, uy hiếp địch giành thắng lợi to lớn. Các lực lượng của ta tiếp tục được điều lên chi viện để bao vây Ðầm Cùng, gây cho địch nhiều thiệt hại.

Ngày 18/4/1968, sau 3 tháng bao vây đánh lấn Chi khu Năm Căn, quân dân huyện Duyên Hải đã đào hàng ngàn mét khối đất với 3 mũi chiến hào dài hàng ngàn mét, xây đắp 132 công sự, chiến hào và hầm tránh phi pháo; xây dựng nhiều trận địa, bãi lửa, gài hơn 700 lựu đạn, trái nổ; cắm hơn 28 ngàn mũi chông đước, cọc chống trực thăng. Mặc dù địch thường xuyên phản kích đánh trả ác liệt nhưng lực lượng bao vây kiên cường bám trụ, tác chiến hàng chục trận lớn nhỏ, bức rút đồn Ông Quyến, tiêu diệt đồn kênh Xáng Cụt và đồn Cầu Sắt; loại khỏi vòng chiến đấu hơn 200 tên địch, thu hơn 100 súng các loại và quân trang, quân dụng. Ta hy sinh 26 đồng chí, bị thương 34 đồng chí.

Thắng lợi của trận bao vây bức rút Chi khu Năm Căn - một căn cứ quân sự vô cùng quan trọng của địch nơi vùng đất cuối trời Tổ quốc, giải phóng hoàn toàn huyện Duyên Hải, góp phần quan trọng vào chiến công của quân dân Cà Mau trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nơi đây, còn là nơi ghi nhớ công lao, tinh thần đấu tranh anh dũng, sáng tạo của quân dân Cà Mau trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ðặc biệt, địa điểm này còn để các thế hệ thể hiện lòng biết ơn đối với cha ông, từ đó kế tục, phát huy truyền thống yêu nước; mưu trí, sáng tạo trong đấu tranh gìn giữ hoà bình, cũng như trong lao động, góp phần quan trọng phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục thế hệ mai sau, biết gìn giữ, phát huy giá trị lịch sử và xây dựng quê hương ngày thêm giàu mạnh.

Nhằm ôn lại truyền thống đấu tranh hào hùng của Ðảng bộ, quân và dân huyện Năm Căn, tuyên truyền ý thức bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, góp phần giáo dục cho thế hệ trẻ hiểu biết về lịch sử, văn hoá của địa phương, thể hiện lòng biết ơn đối với thế hệ đi trước, ngày 22/11/2023, UBND huyện Năm Căn tổ chức Lễ đón nhận bằng xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh “Trận đánh bao vây bức rút Chi khu Năm Căn năm 1968” tại UBND huyện Năm Căn./.

 

Vũ Khắc - Dương Lễ

 

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.