ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 1-7-25 06:29:31
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Trên dòng Tam Giang huyền thoại

Báo Cà Mau (CMO) Những ngày đầu tháng 7, chúng tôi có dịp tháp tùng cùng anh Phan Thanh Giào, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Tam Giang, huyện Năm Căn và các chú cựu chiến binh, thương binh trên địa bàn thăm lại chiến trường xưa - nơi diễn ra những trận đánh tàu lịch sử trên sông Tam Giang huyền thoại cách đây hơn 50 năm.

Tính đến nay, trận đánh tàu lịch sử trên sông Tam Giang đã đi vào ký ức trên 50 năm, nhưng hào khí ấy luôn dâng trào trong trái tim của những người con quê hương. Hơn 24 “dũng sĩ đánh tàu” năm xưa ở xã Tam Giang, huyện Năm Căn, hiện chỉ còn khoảng 7 người. Các chú nay tuổi đã cao, sức khoẻ hạn chế, nhưng khi gặp, tôi vẫn cảm nhận khí chất “anh hùng” hiện hữu qua ánh mắt, cử chỉ và lời kể của các chú. Gặp lại đồng đội năm xưa, các chú mừng rơm rớm nước mắt rồi nắm tay, ôm chặt đồng đội, kề tai: “Bọn mình may mắn vì còn được tương ngộ hôm nay”…

Buổi chiều 1/7, trên chiếc vỏ máy composite, chúng tôi cùng anh Giào và chú Chung Quang Thắm, thương binh 3/4, chú Huỳnh Chí Nguyện và chú Tăng Ngọc Điện, đều là thương binh 4/4, chạy dọc theo con sông Tam Giang mênh mông, gió lộng tứ bề. Chú Chung Quang Thắm ngồi mũi chỉ đường và lần lượt qua lời kể của các chú dẫn chúng tôi “thâm nhập” về miền ký ức hào hùng năm xưa…

Chú Chung Quang Thắm, thương binh 3/4 (ngồi mũi vỏ), kế đến là chú Tăng Ngọc Điện và chú Huỳnh Chí Nguyện, đều là thương binh 4/4, cùng kể và nhớ lại trận đánh tàu tiêu diệt 38 tên địch tại vàm kênh Ông Phén năm 1969.

Vỏ máy chạy được một đỗi, chú Thắm giơ tay cao ra hiệu dừng lại tại đầu vàm kênh Ông Phén. Chú Thắm bảo, ngày xưa 2 bên bờ cũng toàn cây mắm, biền lá như vậy, chúng che chở, giúp các chú ngụy trang, ẩn nấp an toàn, chờ cơ hội bắn, tiêu diệt quân thù. Cũng chính nơi này vào năm 1969, Đội Du kích Kênh 17 đã phục kích bắn chìm tàu, tiêu diệt 38 tên địch. Ở trận này, người anh và em trai của chú Chung Quang Thắm là ông Chung Văn Uẩn và ông Chung Văn Những cùng 3 đồng chí khác được tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Nguỵ”. Đội Du kích Kênh 17 cũng được tuyên dương bởi tinh thần quả cảm, sáng tạo, đoán và phục kích đúng ý định và nơi địch đổ quân.

Chú Thắm tự hào bởi cả 3 anh em của chú đều tham gia cách mạng từ rất sớm và đã lập nhiều chiến công. Riêng chú Thắm, năm 1966, từ những ngày đầu tham gia cách mạng, chú được chọn vào Đội Săn tàu huyện Duyên Hải. Chú Thắm từng tham gia nhiều trận đánh lớn và cùng đồng đội lập nhiều chiến công, như đánh phá 2 tiểu pháo hạm (mỗi chiếc dài 120 m) tại cửa Bồ Đề; cùng đồng đội tiêu diệt nhiều tên địch tại Kênh 3, Vàm Đầm; tập kích tiêu diệt 2 chiếc cao tốc của địch đang tuần tra tại cửa Bồ Đề năm 1971; cùng Đội săn tàu bắn chìm chiếc tiểu pháo hạm tại ngã tư Tam Giang ngày 17/5/1972.

Tham gia nhiều trận đánh lớn và lập nhiều chiến công, cả chú Thắm và người anh trai 2 lần bị thương, hiện là thương binh 3/4, riêng người em út của chú đã hy sinh trong thời chiến, nên câu chuyện về những trận đánh tàu trên sông Tam Giang đã trở thành “ký ức đặc biệt” trong tâm thức của thương binh Chung Quang Thắm. Thời điểm ấy, đất trời như hiểu được lòng người, mây đen giăng tứ phía, kéo theo mưa dông như tâm trạng các chú đang giận dữ, căm thù giặc tột độ, cùng nỗi đau thương tột cùng vì đã không ít người thân, đồng đội thân yêu đã ngã xuống ở nơi này...

Để tránh mưa, vỏ máy của chúng tôi tiếp tục di chuyển nhanh về ngã ba sông Tam Giang, hướng ra cửa biển Bồ Đề để cả đoàn cùng đến tham quan Bia Di tích lịch sử cấp tỉnh, địa điểm ghi nhớ chiến công trận đánh tàu trên sông Tam Giang tại vàm rạch Chủ Mưu, năm 1970. Nơi đây, chú Tăng Ngọc Điện, thương binh 4/4, hội viên Chi hội Cựu chiến binh ấp Kênh 17, chia sẻ: “Ngày xưa, nghe tiếng “ting ting ting” tín hiệu riêng thông báo để biết rằng tàu sắp vô bến (Đoàn tàu không số từ Bắc chuyển vào tiếp tế vũ khí cho chiến trường miền Nam - PV), khi ấy đơn vị trong tâm thế sẵn sàng để bảo vệ đoàn tàu của ta cập bến an toàn, đồng thời ngăn chặn tàu địch để chúng ít và không có cơ hội ngăn đường tiếp tế cho quân ta. Tôi đã từng tham gia trên 100 trận đánh tàu, đồng trực tiếp tham gia trận đánh tàu trên sông Tam Giang tại vàm rạch Chủ Mưu năm 1970, cùng đồng đội bắn chìm 228 tàu, chiếc tàu dài 120 m và tiêu diệt cả đại đội với 70-80 tên địch. Thời đó, biết rằng điều kiện rất khó khăn, dầm mưa dãi nắng, trầm mình trong rừng, dưới sông ngày này qua tháng nọ nhưng tâm thế luôn hăng say, sẵn sàng chiến đấu. Phương tiện đánh địch cũng còn hạn chế, nhất là những đêm tối trời, rất khó ngắm mục tiêu, anh em mới có sáng kiến bắt con đom đóm gắn vào đầu ngắm để định hướng ngắm bắn mục tiêu, ấy vậy mà hàng trăm xác tàu đã bỏ mạng trên con sông huyền thoại này”.

Di tích lịch sử cấp tỉnh Trận đánh tàu trên sông Tam Giang tại vàm rạch Chủ Mưu, năm 1970, được đặt gần ngã ba sông Tam Giang, trổ ra cửa biển Bồ Đề, nay trở thành “địa chỉ đỏ” để địa phương giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ.

Phấn chấn khi nghe đồng đội kể chuyện thành tích đánh tàu, chú Huỳnh Chí Nguyện, sinh năm 1953, thương binh 4/4, tham gia đơn vị 962 năm 1970, hào sảng kể: “Riêng tôi thì ấn tượng nhất khi cùng đồng đội tham gia ở trận đánh năm 1971 tại vàm Cái Nước, đánh chìm chiếc hạm đội lớn nhất của địch dài trên 150 m và tiêu diệt trên 70 tên địch. Trận đánh này, phía ta huy động 2 đại đội khoảng 40 lực lượng, chia lực lượng 2 bên sông, ẩn nấp dưới lùm mắm, dừa nước, chờ tàu địch đi qua có lệnh của chỉ huy là đồng loạt tung hoả lực. Đặc biệt, hoả lực tập trung bắn phần lườn tàu (phần từ mặt nước xuống đáy tàu), hoả lực công phá tàu, nước dẫn vào tàu dẫn đến chiếc hạm đội to xác bị nhấn chìm nhanh chóng dưới dòng Tam Giang”.

Trầm giọng, chú Huỳnh Chí Nguyện xúc động nhớ: “Tuy nhiên, trận này cũng đã lấy đi của ta 6 đồng đội ưu tú và nhiều đồng chí bị thương. Thời điểm đó, chúng tôi phải gạt nhanh nước mắt, biến đau thương thành sức mạnh, nhân lên lòng căm thù, ý chí quyết tâm nhắm thẳng quân thù mà bắn, giành lại cuộc sống hoà bình, ấm no cho dân tộc”.

Cách nay hơn 50 năm, ở tuổi 15, 17, chú Thắm, chú Nguyện, chú Điện đã xung phong ra trận, không ngại gian khổ ngày đêm trầm mình trong rừng, dưới lòng sông Tam Giang phá nước, đột kích, đánh tàu… cùng đồng chí, đồng đội làm nên những trang sử vẻ vang cho quê hương, dân tộc. Nay về thăm lại chiến trường xưa, trên con sông Tam Giang đã đi vào huyền thoại với những điều “nhất”: sông dài nhất, sâu nhất, xảy ra nhiều trận đánh đáng nhớ trong lịch sử - đã góp phần khơi nguồn ký ức, gợi cho các chú nhiều kỷ niệm một thời cách mạng hào hùng, chất chứa cả nỗi niềm, xúc động về sự mất mát, hy sinh của anh em, đồng đội…

“Đảng bộ và Nhân dân xã Tam Giang rất vinh dự, tự hào khi được Chủ tịch UBND tỉnh trao bằng xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh trận đánh tàu trên sông Tam Giang (tại vàm rạch Chủ Mưu - năm 1970), năm 2016. Nơi đây trở thành “địa chỉ đỏ” để chúng tôi giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ noi theo ra sức hiến kế xây dựng quê hương ngày càng mạnh giàu”, anh Phan Thanh Giào bày tỏ.

Con sông Tam Giang ngày nay hiền hoà, lòng sông ôm trọn phù sa, sản sinh tôm cá để nuôi nấng, bảo bọc những người con quê hương. Ven bờ vẫn những hàng mắm lấn bãi bồi giữ đất, cùng những cụm dừa nước, tàu lá che nghiêng xưa từng che chắn, bảo vệ bộ đội. Xa xa là những dãy hàng đáy căng mình giữa dòng nước chảy, đón bắt cá, tôm giúp cho đời sống người dân thêm sung túc; có cả xóm hầm than ven sông nghi ngút khói, toả mùi khói than đước đặc trưng ở miệt rừng ngập mặn. Đoạn ngã ba sông Tam Giang, trổ ra cửa Bồ Đề mênh mông, rộng lớn, xuồng ghe tấp nập ra vào đánh bắt cá tôm. Say mê những câu chuyện kể chiến công xưa của thế hệ cha chú, tôi bỗng nhớ và ngân nga câu hát: “Nghe gió reo trên Tam Giang/Ngời bao chiến công xưa oanh liệt...” (lời bài hát “Trên quê hương Minh Hải”) - thật sự rất đỗi tự hào, thêm yêu quê hương và thành kính tri ân những anh hùng đã ngã xuống cho sự bình yên, hạnh phúc hôm nay./.

 

Loan Phương

 

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.