Thứ năm, 18-9-25 02:15:31
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Trên dòng Tam Giang huyền thoại

Báo Cà Mau (CMO) Những ngày đầu tháng 7, chúng tôi có dịp tháp tùng cùng anh Phan Thanh Giào, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Tam Giang, huyện Năm Căn và các chú cựu chiến binh, thương binh trên địa bàn thăm lại chiến trường xưa - nơi diễn ra những trận đánh tàu lịch sử trên sông Tam Giang huyền thoại cách đây hơn 50 năm.

Tính đến nay, trận đánh tàu lịch sử trên sông Tam Giang đã đi vào ký ức trên 50 năm, nhưng hào khí ấy luôn dâng trào trong trái tim của những người con quê hương. Hơn 24 “dũng sĩ đánh tàu” năm xưa ở xã Tam Giang, huyện Năm Căn, hiện chỉ còn khoảng 7 người. Các chú nay tuổi đã cao, sức khoẻ hạn chế, nhưng khi gặp, tôi vẫn cảm nhận khí chất “anh hùng” hiện hữu qua ánh mắt, cử chỉ và lời kể của các chú. Gặp lại đồng đội năm xưa, các chú mừng rơm rớm nước mắt rồi nắm tay, ôm chặt đồng đội, kề tai: “Bọn mình may mắn vì còn được tương ngộ hôm nay”…

Buổi chiều 1/7, trên chiếc vỏ máy composite, chúng tôi cùng anh Giào và chú Chung Quang Thắm, thương binh 3/4, chú Huỳnh Chí Nguyện và chú Tăng Ngọc Điện, đều là thương binh 4/4, chạy dọc theo con sông Tam Giang mênh mông, gió lộng tứ bề. Chú Chung Quang Thắm ngồi mũi chỉ đường và lần lượt qua lời kể của các chú dẫn chúng tôi “thâm nhập” về miền ký ức hào hùng năm xưa…

Chú Chung Quang Thắm, thương binh 3/4 (ngồi mũi vỏ), kế đến là chú Tăng Ngọc Điện và chú Huỳnh Chí Nguyện, đều là thương binh 4/4, cùng kể và nhớ lại trận đánh tàu tiêu diệt 38 tên địch tại vàm kênh Ông Phén năm 1969.

Vỏ máy chạy được một đỗi, chú Thắm giơ tay cao ra hiệu dừng lại tại đầu vàm kênh Ông Phén. Chú Thắm bảo, ngày xưa 2 bên bờ cũng toàn cây mắm, biền lá như vậy, chúng che chở, giúp các chú ngụy trang, ẩn nấp an toàn, chờ cơ hội bắn, tiêu diệt quân thù. Cũng chính nơi này vào năm 1969, Đội Du kích Kênh 17 đã phục kích bắn chìm tàu, tiêu diệt 38 tên địch. Ở trận này, người anh và em trai của chú Chung Quang Thắm là ông Chung Văn Uẩn và ông Chung Văn Những cùng 3 đồng chí khác được tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Nguỵ”. Đội Du kích Kênh 17 cũng được tuyên dương bởi tinh thần quả cảm, sáng tạo, đoán và phục kích đúng ý định và nơi địch đổ quân.

Chú Thắm tự hào bởi cả 3 anh em của chú đều tham gia cách mạng từ rất sớm và đã lập nhiều chiến công. Riêng chú Thắm, năm 1966, từ những ngày đầu tham gia cách mạng, chú được chọn vào Đội Săn tàu huyện Duyên Hải. Chú Thắm từng tham gia nhiều trận đánh lớn và cùng đồng đội lập nhiều chiến công, như đánh phá 2 tiểu pháo hạm (mỗi chiếc dài 120 m) tại cửa Bồ Đề; cùng đồng đội tiêu diệt nhiều tên địch tại Kênh 3, Vàm Đầm; tập kích tiêu diệt 2 chiếc cao tốc của địch đang tuần tra tại cửa Bồ Đề năm 1971; cùng Đội săn tàu bắn chìm chiếc tiểu pháo hạm tại ngã tư Tam Giang ngày 17/5/1972.

Tham gia nhiều trận đánh lớn và lập nhiều chiến công, cả chú Thắm và người anh trai 2 lần bị thương, hiện là thương binh 3/4, riêng người em út của chú đã hy sinh trong thời chiến, nên câu chuyện về những trận đánh tàu trên sông Tam Giang đã trở thành “ký ức đặc biệt” trong tâm thức của thương binh Chung Quang Thắm. Thời điểm ấy, đất trời như hiểu được lòng người, mây đen giăng tứ phía, kéo theo mưa dông như tâm trạng các chú đang giận dữ, căm thù giặc tột độ, cùng nỗi đau thương tột cùng vì đã không ít người thân, đồng đội thân yêu đã ngã xuống ở nơi này...

Để tránh mưa, vỏ máy của chúng tôi tiếp tục di chuyển nhanh về ngã ba sông Tam Giang, hướng ra cửa biển Bồ Đề để cả đoàn cùng đến tham quan Bia Di tích lịch sử cấp tỉnh, địa điểm ghi nhớ chiến công trận đánh tàu trên sông Tam Giang tại vàm rạch Chủ Mưu, năm 1970. Nơi đây, chú Tăng Ngọc Điện, thương binh 4/4, hội viên Chi hội Cựu chiến binh ấp Kênh 17, chia sẻ: “Ngày xưa, nghe tiếng “ting ting ting” tín hiệu riêng thông báo để biết rằng tàu sắp vô bến (Đoàn tàu không số từ Bắc chuyển vào tiếp tế vũ khí cho chiến trường miền Nam - PV), khi ấy đơn vị trong tâm thế sẵn sàng để bảo vệ đoàn tàu của ta cập bến an toàn, đồng thời ngăn chặn tàu địch để chúng ít và không có cơ hội ngăn đường tiếp tế cho quân ta. Tôi đã từng tham gia trên 100 trận đánh tàu, đồng trực tiếp tham gia trận đánh tàu trên sông Tam Giang tại vàm rạch Chủ Mưu năm 1970, cùng đồng đội bắn chìm 228 tàu, chiếc tàu dài 120 m và tiêu diệt cả đại đội với 70-80 tên địch. Thời đó, biết rằng điều kiện rất khó khăn, dầm mưa dãi nắng, trầm mình trong rừng, dưới sông ngày này qua tháng nọ nhưng tâm thế luôn hăng say, sẵn sàng chiến đấu. Phương tiện đánh địch cũng còn hạn chế, nhất là những đêm tối trời, rất khó ngắm mục tiêu, anh em mới có sáng kiến bắt con đom đóm gắn vào đầu ngắm để định hướng ngắm bắn mục tiêu, ấy vậy mà hàng trăm xác tàu đã bỏ mạng trên con sông huyền thoại này”.

Di tích lịch sử cấp tỉnh Trận đánh tàu trên sông Tam Giang tại vàm rạch Chủ Mưu, năm 1970, được đặt gần ngã ba sông Tam Giang, trổ ra cửa biển Bồ Đề, nay trở thành “địa chỉ đỏ” để địa phương giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ.

Phấn chấn khi nghe đồng đội kể chuyện thành tích đánh tàu, chú Huỳnh Chí Nguyện, sinh năm 1953, thương binh 4/4, tham gia đơn vị 962 năm 1970, hào sảng kể: “Riêng tôi thì ấn tượng nhất khi cùng đồng đội tham gia ở trận đánh năm 1971 tại vàm Cái Nước, đánh chìm chiếc hạm đội lớn nhất của địch dài trên 150 m và tiêu diệt trên 70 tên địch. Trận đánh này, phía ta huy động 2 đại đội khoảng 40 lực lượng, chia lực lượng 2 bên sông, ẩn nấp dưới lùm mắm, dừa nước, chờ tàu địch đi qua có lệnh của chỉ huy là đồng loạt tung hoả lực. Đặc biệt, hoả lực tập trung bắn phần lườn tàu (phần từ mặt nước xuống đáy tàu), hoả lực công phá tàu, nước dẫn vào tàu dẫn đến chiếc hạm đội to xác bị nhấn chìm nhanh chóng dưới dòng Tam Giang”.

Trầm giọng, chú Huỳnh Chí Nguyện xúc động nhớ: “Tuy nhiên, trận này cũng đã lấy đi của ta 6 đồng đội ưu tú và nhiều đồng chí bị thương. Thời điểm đó, chúng tôi phải gạt nhanh nước mắt, biến đau thương thành sức mạnh, nhân lên lòng căm thù, ý chí quyết tâm nhắm thẳng quân thù mà bắn, giành lại cuộc sống hoà bình, ấm no cho dân tộc”.

Cách nay hơn 50 năm, ở tuổi 15, 17, chú Thắm, chú Nguyện, chú Điện đã xung phong ra trận, không ngại gian khổ ngày đêm trầm mình trong rừng, dưới lòng sông Tam Giang phá nước, đột kích, đánh tàu… cùng đồng chí, đồng đội làm nên những trang sử vẻ vang cho quê hương, dân tộc. Nay về thăm lại chiến trường xưa, trên con sông Tam Giang đã đi vào huyền thoại với những điều “nhất”: sông dài nhất, sâu nhất, xảy ra nhiều trận đánh đáng nhớ trong lịch sử - đã góp phần khơi nguồn ký ức, gợi cho các chú nhiều kỷ niệm một thời cách mạng hào hùng, chất chứa cả nỗi niềm, xúc động về sự mất mát, hy sinh của anh em, đồng đội…

“Đảng bộ và Nhân dân xã Tam Giang rất vinh dự, tự hào khi được Chủ tịch UBND tỉnh trao bằng xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh trận đánh tàu trên sông Tam Giang (tại vàm rạch Chủ Mưu - năm 1970), năm 2016. Nơi đây trở thành “địa chỉ đỏ” để chúng tôi giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ noi theo ra sức hiến kế xây dựng quê hương ngày càng mạnh giàu”, anh Phan Thanh Giào bày tỏ.

Con sông Tam Giang ngày nay hiền hoà, lòng sông ôm trọn phù sa, sản sinh tôm cá để nuôi nấng, bảo bọc những người con quê hương. Ven bờ vẫn những hàng mắm lấn bãi bồi giữ đất, cùng những cụm dừa nước, tàu lá che nghiêng xưa từng che chắn, bảo vệ bộ đội. Xa xa là những dãy hàng đáy căng mình giữa dòng nước chảy, đón bắt cá, tôm giúp cho đời sống người dân thêm sung túc; có cả xóm hầm than ven sông nghi ngút khói, toả mùi khói than đước đặc trưng ở miệt rừng ngập mặn. Đoạn ngã ba sông Tam Giang, trổ ra cửa Bồ Đề mênh mông, rộng lớn, xuồng ghe tấp nập ra vào đánh bắt cá tôm. Say mê những câu chuyện kể chiến công xưa của thế hệ cha chú, tôi bỗng nhớ và ngân nga câu hát: “Nghe gió reo trên Tam Giang/Ngời bao chiến công xưa oanh liệt...” (lời bài hát “Trên quê hương Minh Hải”) - thật sự rất đỗi tự hào, thêm yêu quê hương và thành kính tri ân những anh hùng đã ngã xuống cho sự bình yên, hạnh phúc hôm nay./.

 

Loan Phương

 

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.