ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 6-6-25 12:00:25
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Tự hào nghề giáo thời chiến

Báo Cà Mau (CMO) Tôi biết vợ chồng ông Tám từ trước nhưng mãi đến hôm nay mới có dịp nghe vợ chồng chú chia sẻ về những năm tháng gắn bó với nghề gõ đầu trẻ thời kháng chiến. Với lứa tuổi như tôi bây giờ thì khó có thể hình dung nổi những gian nan, vất vả, mất mát, hy sinh của thầy, cô giáo thời ấy để hoàn thành nhiệm vụ song hành là “vừa dạy học, vừa chống giặc”.

Ông Tám Hồng tên thật là Nguyễn Thanh Hồng, năm nay 68 tuổi, hiện gia đình sinh sống tại ấp Rau Dừa B, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước. Ông lớn lên trong gia đình giàu truyền thống cách mạng. Từ nhỏ, ông được đổi tên họ là Trần Quốc Tuấn để có thể học tập tại Sài Gòn. Khi học đến lớp tú tài 1 (lớp 10 ngày nay - PV), tình hình chiến sự tại Sài Gòn căng thẳng, tại đây thường xuyên có các cuộc biểu tình chống đế quốc Mỹ và ông cũng hay tham gia cùng các cuộc biểu tình do học sinh phát động.

Thấy tình hình ngày một biến động và được biết địch càn quét quê nhà dữ dội, năm 1970, chàng thanh niên chưa đầy 17 tuổi khăn gói trở về quê, tham gia đội thông tin cổ động để cùng Nhân dân chống giặc. Sau hơn 3 tháng trở về quê nhà hoạt động, ông được cử đi học khoá sư phạm đầu tiên của huyện Cái Nước, lúc đó lớp có 28 học viên. Học được 6 tháng, ông về dạy học từ lớp 1 đến lớp 4 tại ấp Rau Dừa C, xã Hưng Mỹ.

Ông kể: “Khi đó tuổi trẻ nhiệt huyết lắm, từ lúc học cho đến lúc đi dạy, tôi hụt chết nhiều lần mà không hế biết sợ là gì. Có lần đi dạy học về, bị giặc phát hiện, tôi liền phóng xuống đống cây ráng trốn, bị tụi giặc đạp mạnh ở trên, xíu nữa thì chết. Nhớ lúc đó, trường lớp toàn cây lá tạm bợ không à, giặc bỏ bom cháy thì dựng lại học. Cuộc sống thầy và trò lúc đó khó khăn vô cùng, nhưng vì cái chữ, vì quyết đuổi giặc ngoại xâm mà đồng lòng duy trì học tập”.

Thầy giáo trẻ ngày đó tuổi đôi mươi, tài sản duy nhất chỉ là chiếc xuồng be bảy, cây dầm, 1 thùng sắt đựng sách vở, 1 cái nóp (cái mùng) và 2 bộ quần áo. Ấy vậy mà hành trình truyền con chữ của thầy giáo vẫn luôn vững vàng vượt qua mọi khó khăn, vừa dạy học nhưng cũng vừa chống giặc. Xung quanh ngôi trường 2 lớp học, lúc nào cũng được đào sẵn công sự chữ L, hễ phát hiện có giặc càn quét, bắn phá là thầy giáo đưa từng học sinh xuống công sự an toàn rồi mới trốn xuống sau cùng với các em.

Nhắc đến đây, giọng ông nghẹn ngào, lời kể ngắt quãng: “Chắc có lẽ suốt cuộc đời mình, khoảng thời gian làm thầy giáo thời chiến là điều tôi tự hào nhất. Lúc ấy gian khó nhưng tình cảm thầy trò gắn bó, giản đơn nhưng thấm đẫm. Ði dạy học, bom đạn dội đầu, bữa no bữa đói. Nhớ có lúc 5 ngày trời thầy, cô giáo chúng tôi chỉ ăn đúng 2 bữa cơm gạo lứt xin của người dân. Vậy mà không một ai nản lòng. Càng khó khăn, chúng tôi càng nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ. Thầy trò nương tựa nhau vì ai cũng nghèo khó, lắm lúc nhà trò chỉ có món bánh dừa, bánh chuối mang lại trường tặng thầy cô giáo, vậy mà ai cũng vui”. 

Cuộc sống của vợ ông Tám Hồng an nhàn, vui vầy bên con cháu.

Ông Tám kể tiếp: “Sau năm 1973, tôi được trở về ấp Rau Dừa B, tiếp tục tham gia đội thông tin cổ động và vừa dạy học. Lúc đó, toàn xã Hưng Mỹ có 14 giáo viên. Ðến năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, tôi vẫn tiếp tục dạy học trường làng và nhận lương đầu tiên là 30 đồng/tháng. Khoảng thời gian đó, Ban Giáo dục địa phương tiếp tục phát động phong trào “diệt giặc dốt” nên mỗi ngày giáo viên chúng tôi phải dạy 3 buổi. Dù vất vả nhưng giáo viên ai cũng một lòng truyền dạy kiến thức cho người dân từ trẻ nhỏ cho đến cụ già”.

Cứ chập choạng tối, từ những nhánh sông, bìa rừng lại thấy ánh sáng ngọn đuốc như bầy đom đóm của học sinh đến tham gia lớp học ban đêm. Lớp học nhộn nhịp, người biết chữ dạy người chưa biết chữ, từ trẻ đến già ai cũng nhiệt tâm tham gia để tiếp tục đẩy lùi “giặc dốt”. Thấm thía những gian nan ấy, câu chuyện học hành thời chiến là vậy, nhưng đó sẽ là những kỷ niệm khó quên và tình cảm thầy trò bình dị nhưng chứa đựng sự thiêng liêng.

Từ năm 1977, ông Tám Hồng lập gia đình và tiếp tục được cử đi học quản lý ở Bạc Liêu (lúc đó còn là tỉnh Minh Hải). Hoàn thành khoá học hơn 1 năm, ông trở về làm Hiệu trưởng Trường Phổ thông cơ sở cấp 1, cấp 2 tại xã Bình Mỹ, huyện Cái Nước. Sau năm 1984, ông được rút về Huyện uỷ Cái Nước, kinh qua nhiều vị trí khác nhau và đến năm 1992 ông xin nghỉ hưu vì hoàn cảnh gia đình.

Vợ ông là bà Nguyễn Tuyết Mai, cũng là một giáo viên thời kháng chiến. Năm 16 tuổi bà làm giao liên Xã uỷ Hưng Mỹ và làm giáo viên dạy trường làng thuộc ấp Thị Tường B. Mỗi người một nơi cùng tham gia kháng chiến, cùng làm nghề gõ đầu trẻ thời đánh giặc nên cả hai luôn thấu hiểu, đồng cảm.

Vợ chồng ông kết hôn năm 1977, cuộc sống gia đình lúc đó gặp vô vàn khó khăn. Vật lộn với cuộc sống nhưng cả hai nỗ lực hết mình vì sự nghiệp giáo dục. Ðến năm 1992, do sức khoẻ cha mẹ già và lo cho tương lai 4 đứa con thơ nên ông Tám quyết định nghỉ hưu sớm để nhường vợ tiếp tục công tác giảng dạy.

“Lúc đó, ông nhà tôi nghỉ hưu sớm, 2 năm sau tôi cũng nghỉ hưu. Thời gian đó, vợ chồng tôi buôn bán đủ thứ mới có thể lo cho gia đình 8 nhân khẩu. Chật vật, khó khăn nhưng vợ chồng tôi quyết tâm nuôi các con ăn học thành tài. Mừng một điều là con tôi đứa nào cũng ngoan ngoãn nên giờ vợ chồng tôi vui mừng lắm. Gẫm lại cuộc đời dành hết tuổi thanh xuân cho trường lớp, học trò, là điều mà chúng tôi không hề hối tiếc. Giờ đây khi về hưu, tài sản lớn nhất của vợ chồng tôi là các con đã trưởng thành, học hành đàng hoàng, trình độ đại học, thạc sĩ, cuộc sống các con đều ổn định”, bà Mai tâm tình.

Sau thời gian nghỉ hưu không bao lâu, bà Mai tham gia Hội Cựu giáo chức xã, năm 1999 bà được bầu giữ chức Phó chủ tịch Hội Cựu giáo chức xã. Ðến năm 2015, bà được tín nhiệm vị trí Chủ tịch Hội Cựu giáo chức và Chủ tịch Khuyến học xã cho đến bây giờ.

Trong quá trình công tác, cả ông bà đều nhận được Huân, Huy chương Kháng chiến hạng Nhất, cùng nhiều giấy khen, bằng khen, Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp giáo dục.

“Trải qua nhiều biến cố, thăng trầm khi gắn đời mình cho sự nghiệp giáo dục, vợ chồng tôi trân trọng khoảng thời gian đó. Giờ đây, khi cuộc sống về già an nhàn nên cả vợ chồng tôi mong muốn góp một phần công sức của mình tiếp tục chăm lo cho giáo dục. Hàng năm, chúng tôi đều họp mặt các hội viên cựu giáo chức, tuy người mất người còn, người già yếu bệnh tật, nhưng đó là trách nhiệm và còn là niềm vui để gắn kết những giáo viên thời kháng chiến. Bên cạnh đó, chúng tôi còn vận động mạnh thường quân đóng góp giúp đỡ hội viên khó khăn, trao tặng những suất quà hiếu học để nâng bước các em học sinh nghèo vượt khó trên địa bàn”, bà Mai bày tỏ.

Lắng nghe những chia sẻ của ông bà, càng thấy khâm phục những nỗ lực của những giáo viên thời chiến khi vừa dạy học vừa cùng Nhân dân đánh giặc. Mỗi một giai đoạn, hành trình bước qua của ông bà là một dấu ấn khó phai mờ về nghề dạy học. Có lẽ trong tiềm thức của những cựu học sinh luôn hiện diện hình ảnh người thầy giáo, cô giáo không ngại gian khó dày công truyền dạy kiến thức trong thời kháng chiến ác liệt. Giờ đây, cuộc chiến đã lùi xa nhiều năm, giáo dục gặp nhiều thuận lợi, nhưng ông bà vẫn nặng lòng khi thấy còn nhiều học sinh hoàn cảnh khó khăn cần được trợ lực. Những món quà trao tay, ông bà mong muốn góp một phần sức mình để các em không dở dang chuyện học hành, tiếp tục hành trình đi tìm tri thức./.

 

Hằng My

 

Liên kết hữu ích

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.