ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 23-11-24 17:19:12
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Tự hào nghề giáo thời chiến

Báo Cà Mau (CMO) Tôi biết vợ chồng ông Tám từ trước nhưng mãi đến hôm nay mới có dịp nghe vợ chồng chú chia sẻ về những năm tháng gắn bó với nghề gõ đầu trẻ thời kháng chiến. Với lứa tuổi như tôi bây giờ thì khó có thể hình dung nổi những gian nan, vất vả, mất mát, hy sinh của thầy, cô giáo thời ấy để hoàn thành nhiệm vụ song hành là “vừa dạy học, vừa chống giặc”.

Ông Tám Hồng tên thật là Nguyễn Thanh Hồng, năm nay 68 tuổi, hiện gia đình sinh sống tại ấp Rau Dừa B, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước. Ông lớn lên trong gia đình giàu truyền thống cách mạng. Từ nhỏ, ông được đổi tên họ là Trần Quốc Tuấn để có thể học tập tại Sài Gòn. Khi học đến lớp tú tài 1 (lớp 10 ngày nay - PV), tình hình chiến sự tại Sài Gòn căng thẳng, tại đây thường xuyên có các cuộc biểu tình chống đế quốc Mỹ và ông cũng hay tham gia cùng các cuộc biểu tình do học sinh phát động.

Thấy tình hình ngày một biến động và được biết địch càn quét quê nhà dữ dội, năm 1970, chàng thanh niên chưa đầy 17 tuổi khăn gói trở về quê, tham gia đội thông tin cổ động để cùng Nhân dân chống giặc. Sau hơn 3 tháng trở về quê nhà hoạt động, ông được cử đi học khoá sư phạm đầu tiên của huyện Cái Nước, lúc đó lớp có 28 học viên. Học được 6 tháng, ông về dạy học từ lớp 1 đến lớp 4 tại ấp Rau Dừa C, xã Hưng Mỹ.

Ông kể: “Khi đó tuổi trẻ nhiệt huyết lắm, từ lúc học cho đến lúc đi dạy, tôi hụt chết nhiều lần mà không hế biết sợ là gì. Có lần đi dạy học về, bị giặc phát hiện, tôi liền phóng xuống đống cây ráng trốn, bị tụi giặc đạp mạnh ở trên, xíu nữa thì chết. Nhớ lúc đó, trường lớp toàn cây lá tạm bợ không à, giặc bỏ bom cháy thì dựng lại học. Cuộc sống thầy và trò lúc đó khó khăn vô cùng, nhưng vì cái chữ, vì quyết đuổi giặc ngoại xâm mà đồng lòng duy trì học tập”.

Thầy giáo trẻ ngày đó tuổi đôi mươi, tài sản duy nhất chỉ là chiếc xuồng be bảy, cây dầm, 1 thùng sắt đựng sách vở, 1 cái nóp (cái mùng) và 2 bộ quần áo. Ấy vậy mà hành trình truyền con chữ của thầy giáo vẫn luôn vững vàng vượt qua mọi khó khăn, vừa dạy học nhưng cũng vừa chống giặc. Xung quanh ngôi trường 2 lớp học, lúc nào cũng được đào sẵn công sự chữ L, hễ phát hiện có giặc càn quét, bắn phá là thầy giáo đưa từng học sinh xuống công sự an toàn rồi mới trốn xuống sau cùng với các em.

Nhắc đến đây, giọng ông nghẹn ngào, lời kể ngắt quãng: “Chắc có lẽ suốt cuộc đời mình, khoảng thời gian làm thầy giáo thời chiến là điều tôi tự hào nhất. Lúc ấy gian khó nhưng tình cảm thầy trò gắn bó, giản đơn nhưng thấm đẫm. Ði dạy học, bom đạn dội đầu, bữa no bữa đói. Nhớ có lúc 5 ngày trời thầy, cô giáo chúng tôi chỉ ăn đúng 2 bữa cơm gạo lứt xin của người dân. Vậy mà không một ai nản lòng. Càng khó khăn, chúng tôi càng nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ. Thầy trò nương tựa nhau vì ai cũng nghèo khó, lắm lúc nhà trò chỉ có món bánh dừa, bánh chuối mang lại trường tặng thầy cô giáo, vậy mà ai cũng vui”. 

Cuộc sống của vợ ông Tám Hồng an nhàn, vui vầy bên con cháu.

Ông Tám kể tiếp: “Sau năm 1973, tôi được trở về ấp Rau Dừa B, tiếp tục tham gia đội thông tin cổ động và vừa dạy học. Lúc đó, toàn xã Hưng Mỹ có 14 giáo viên. Ðến năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, tôi vẫn tiếp tục dạy học trường làng và nhận lương đầu tiên là 30 đồng/tháng. Khoảng thời gian đó, Ban Giáo dục địa phương tiếp tục phát động phong trào “diệt giặc dốt” nên mỗi ngày giáo viên chúng tôi phải dạy 3 buổi. Dù vất vả nhưng giáo viên ai cũng một lòng truyền dạy kiến thức cho người dân từ trẻ nhỏ cho đến cụ già”.

Cứ chập choạng tối, từ những nhánh sông, bìa rừng lại thấy ánh sáng ngọn đuốc như bầy đom đóm của học sinh đến tham gia lớp học ban đêm. Lớp học nhộn nhịp, người biết chữ dạy người chưa biết chữ, từ trẻ đến già ai cũng nhiệt tâm tham gia để tiếp tục đẩy lùi “giặc dốt”. Thấm thía những gian nan ấy, câu chuyện học hành thời chiến là vậy, nhưng đó sẽ là những kỷ niệm khó quên và tình cảm thầy trò bình dị nhưng chứa đựng sự thiêng liêng.

Từ năm 1977, ông Tám Hồng lập gia đình và tiếp tục được cử đi học quản lý ở Bạc Liêu (lúc đó còn là tỉnh Minh Hải). Hoàn thành khoá học hơn 1 năm, ông trở về làm Hiệu trưởng Trường Phổ thông cơ sở cấp 1, cấp 2 tại xã Bình Mỹ, huyện Cái Nước. Sau năm 1984, ông được rút về Huyện uỷ Cái Nước, kinh qua nhiều vị trí khác nhau và đến năm 1992 ông xin nghỉ hưu vì hoàn cảnh gia đình.

Vợ ông là bà Nguyễn Tuyết Mai, cũng là một giáo viên thời kháng chiến. Năm 16 tuổi bà làm giao liên Xã uỷ Hưng Mỹ và làm giáo viên dạy trường làng thuộc ấp Thị Tường B. Mỗi người một nơi cùng tham gia kháng chiến, cùng làm nghề gõ đầu trẻ thời đánh giặc nên cả hai luôn thấu hiểu, đồng cảm.

Vợ chồng ông kết hôn năm 1977, cuộc sống gia đình lúc đó gặp vô vàn khó khăn. Vật lộn với cuộc sống nhưng cả hai nỗ lực hết mình vì sự nghiệp giáo dục. Ðến năm 1992, do sức khoẻ cha mẹ già và lo cho tương lai 4 đứa con thơ nên ông Tám quyết định nghỉ hưu sớm để nhường vợ tiếp tục công tác giảng dạy.

“Lúc đó, ông nhà tôi nghỉ hưu sớm, 2 năm sau tôi cũng nghỉ hưu. Thời gian đó, vợ chồng tôi buôn bán đủ thứ mới có thể lo cho gia đình 8 nhân khẩu. Chật vật, khó khăn nhưng vợ chồng tôi quyết tâm nuôi các con ăn học thành tài. Mừng một điều là con tôi đứa nào cũng ngoan ngoãn nên giờ vợ chồng tôi vui mừng lắm. Gẫm lại cuộc đời dành hết tuổi thanh xuân cho trường lớp, học trò, là điều mà chúng tôi không hề hối tiếc. Giờ đây khi về hưu, tài sản lớn nhất của vợ chồng tôi là các con đã trưởng thành, học hành đàng hoàng, trình độ đại học, thạc sĩ, cuộc sống các con đều ổn định”, bà Mai tâm tình.

Sau thời gian nghỉ hưu không bao lâu, bà Mai tham gia Hội Cựu giáo chức xã, năm 1999 bà được bầu giữ chức Phó chủ tịch Hội Cựu giáo chức xã. Ðến năm 2015, bà được tín nhiệm vị trí Chủ tịch Hội Cựu giáo chức và Chủ tịch Khuyến học xã cho đến bây giờ.

Trong quá trình công tác, cả ông bà đều nhận được Huân, Huy chương Kháng chiến hạng Nhất, cùng nhiều giấy khen, bằng khen, Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp giáo dục.

“Trải qua nhiều biến cố, thăng trầm khi gắn đời mình cho sự nghiệp giáo dục, vợ chồng tôi trân trọng khoảng thời gian đó. Giờ đây, khi cuộc sống về già an nhàn nên cả vợ chồng tôi mong muốn góp một phần công sức của mình tiếp tục chăm lo cho giáo dục. Hàng năm, chúng tôi đều họp mặt các hội viên cựu giáo chức, tuy người mất người còn, người già yếu bệnh tật, nhưng đó là trách nhiệm và còn là niềm vui để gắn kết những giáo viên thời kháng chiến. Bên cạnh đó, chúng tôi còn vận động mạnh thường quân đóng góp giúp đỡ hội viên khó khăn, trao tặng những suất quà hiếu học để nâng bước các em học sinh nghèo vượt khó trên địa bàn”, bà Mai bày tỏ.

Lắng nghe những chia sẻ của ông bà, càng thấy khâm phục những nỗ lực của những giáo viên thời chiến khi vừa dạy học vừa cùng Nhân dân đánh giặc. Mỗi một giai đoạn, hành trình bước qua của ông bà là một dấu ấn khó phai mờ về nghề dạy học. Có lẽ trong tiềm thức của những cựu học sinh luôn hiện diện hình ảnh người thầy giáo, cô giáo không ngại gian khó dày công truyền dạy kiến thức trong thời kháng chiến ác liệt. Giờ đây, cuộc chiến đã lùi xa nhiều năm, giáo dục gặp nhiều thuận lợi, nhưng ông bà vẫn nặng lòng khi thấy còn nhiều học sinh hoàn cảnh khó khăn cần được trợ lực. Những món quà trao tay, ông bà mong muốn góp một phần sức mình để các em không dở dang chuyện học hành, tiếp tục hành trình đi tìm tri thức./.

 

Hằng My

 

Kho tàng đơn xin việc mẫu chuyên nghiệp

Những "ngôi nhà cách mạng"

Thời chiến tranh chống giặc ngoại xâm, Cà Mau là căn cứ địa đặc biệt quan trọng đối với phong trào cách mạng cả nước. Từ thành thị đến làng rừng có rất nhiều địa điểm ghi dấu ấn, nay là di tích lịch sử cách mạng.

Chuyện xin giống cây vú sữa trồng ở Phủ thờ Bác

Tại Phủ thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, xã Trí Lực, huyện Thới Bình (mọi người thường gọi thân thương là “Phủ thờ Bác xã Trí Lực”), hiện có cây vú sữa được nhân giống từ cây vú sữa của má Lê Thị Sảnh (Ấp 10, xã Trí Phải, huyện Thới Bình) gửi Tiểu đoàn 307 mang ra miền Bắc tặng Bác Hồ trên chuyến tàu tập kết năm 1954. Cây vú sữa này cũng đã cho trái từ mấy chục năm qua, khắc sâu thêm tình cảm thiêng liêng của người dân Cà Mau đối với Bác. Thế nhưng, chuyện xin cây vú sữa mang về trồng như thế nào và từ khi nào, cũng là thắc mắc của nhiều người.

Vụ thảm sát Cái Sắn qua lời kể của nhân chứng U100

Ông Phạm Văn Quang (Hai Quang), Chủ tịch Hội Khuyến học huyện Thới Bình, là người tâm huyết với công tác khuyến học, hầu như khóm, ấp nào trong huyện cũng có bước chân ông. Một hôm, ông phấn khởi điện cho tôi: “Chú biết có ông cụ này tuổi hơn 90, còn minh mẫn lắm, biết rất nhiều chuyện xưa của vùng đất Thới Bình, trong đó có vụ thảm sát ở Cái Sắn. Sắp xếp rồi chú đưa đi gặp cụ”.

Việt Nam trân trọng độc lập, phát triển bền vững

Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và toàn thế giới ngày 2/9/1945 đã khẳng định Việt Nam là một quốc gia tự do, độc lập. Ở đó người dân có quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc… Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…

Tự hào 79 mùa thu lịch sử

Cách đây 79 năm, với thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Ðộc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, ngày 2/9/1945 trở thành ngày Tết độc lập đầu tiên của Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh - thời đại của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước với ánh sáng chân lý của sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và Ðảng ta soi đường, dẫn lối. Một mùa thu vạch ngang lịch sử, được lịch sử lựa chọn để đi vào bất tử.

Tri ân hai vị lãnh đạo nghĩa quân

Những ngày tháng Tám lịch sử, chúng tôi có dịp tháp tùng cùng Nhà báo Ðỗ Văn Nghiệp (Sáu Sơn), hiện là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Kể chuyện lịch sử (do Bảo tàng tỉnh thành lập) về thăm, thắp hương tại Khu tưởng niệm hai lãnh đạo nghĩa quân, Ðỗ Thừa Luông - Ðỗ Thừa Tự (toạ lạc tại ấp Bùng Binh, xã Hoà Thành, TP Cà Mau) - Di tích lịch sử cấp tỉnh.

Món quà nghĩa tình tri ân mẹ

Thiêng liêng gì bằng Tổ quốc và mẹ. Mẹ đã cống hiến tuổi xuân, tài sản lớn nhất là chồng, là con cho Tổ quốc. Bằng tấm lòng tôn kính, cảm phục, việc xuất bản quyển kỷ yếu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh Cà Mau” thể hiện trách nhiệm và là món quà mang nặng nghĩa tình của Ðảng bộ và Nhân dân tỉnh Cà Mau gửi đến các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) còn sống, thay nén tâm hương dâng lên những mẹ đã khuất.

Chuyện về liệt sĩ nằm lại vùng đất lửa

Cách đây 5 năm, trong chuyến về nguồn cùng Tỉnh đoàn Cà Mau, đó là lần thứ 3 tôi được đặt chân đến Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn (tỉnh Quảng Trị). Mang theo tấm lòng của người con miền Nam đến thắp nén tâm hương cho những vị anh hùng của Tổ quốc, như một sự tình cờ kỳ diệu, giữa hơn 10 ngàn ngôi mộ liệt sĩ nằm lại ở vùng đất lửa, đoàn chúng tôi bất ngờ tìm được một phần mộ đặc biệt. Ðó chính là nơi an nghỉ của Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Xinh, quê tại xã Tân Lộc, huyện Thới Bình.

Những địa chỉ thiêng liêng

Trong 2 cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, lớp lớp những người con Cà Mau lên đường đánh giặc, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Ðể đổi lấy ngày độc lập, chỉ trên quê hương Cà Mau đã có 17.678 liệt sĩ, 16.467 thương binh, 2.510 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gần 17 ngàn người đang hưởng trợ cấp hằng tháng.

Làm đẹp địa chỉ đỏ

Trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt, xương máu của lớp lớp thế hệ ông cha đã thấm đẫm trên từng tấc đất quê hương. Ðể tưởng nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ, tại các xã, thị trấn trong huyện Ngọc Hiển đều xây dựng các đài tưởng niệm, nhà bia ghi danh liệt sĩ. Những công trình này vừa thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, vừa góp phần giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của dân tộc cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.