ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 25-8-25 05:45:31
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Tự hào nghề giáo thời chiến

Báo Cà Mau (CMO) Tôi biết vợ chồng ông Tám từ trước nhưng mãi đến hôm nay mới có dịp nghe vợ chồng chú chia sẻ về những năm tháng gắn bó với nghề gõ đầu trẻ thời kháng chiến. Với lứa tuổi như tôi bây giờ thì khó có thể hình dung nổi những gian nan, vất vả, mất mát, hy sinh của thầy, cô giáo thời ấy để hoàn thành nhiệm vụ song hành là “vừa dạy học, vừa chống giặc”.

Ông Tám Hồng tên thật là Nguyễn Thanh Hồng, năm nay 68 tuổi, hiện gia đình sinh sống tại ấp Rau Dừa B, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước. Ông lớn lên trong gia đình giàu truyền thống cách mạng. Từ nhỏ, ông được đổi tên họ là Trần Quốc Tuấn để có thể học tập tại Sài Gòn. Khi học đến lớp tú tài 1 (lớp 10 ngày nay - PV), tình hình chiến sự tại Sài Gòn căng thẳng, tại đây thường xuyên có các cuộc biểu tình chống đế quốc Mỹ và ông cũng hay tham gia cùng các cuộc biểu tình do học sinh phát động.

Thấy tình hình ngày một biến động và được biết địch càn quét quê nhà dữ dội, năm 1970, chàng thanh niên chưa đầy 17 tuổi khăn gói trở về quê, tham gia đội thông tin cổ động để cùng Nhân dân chống giặc. Sau hơn 3 tháng trở về quê nhà hoạt động, ông được cử đi học khoá sư phạm đầu tiên của huyện Cái Nước, lúc đó lớp có 28 học viên. Học được 6 tháng, ông về dạy học từ lớp 1 đến lớp 4 tại ấp Rau Dừa C, xã Hưng Mỹ.

Ông kể: “Khi đó tuổi trẻ nhiệt huyết lắm, từ lúc học cho đến lúc đi dạy, tôi hụt chết nhiều lần mà không hế biết sợ là gì. Có lần đi dạy học về, bị giặc phát hiện, tôi liền phóng xuống đống cây ráng trốn, bị tụi giặc đạp mạnh ở trên, xíu nữa thì chết. Nhớ lúc đó, trường lớp toàn cây lá tạm bợ không à, giặc bỏ bom cháy thì dựng lại học. Cuộc sống thầy và trò lúc đó khó khăn vô cùng, nhưng vì cái chữ, vì quyết đuổi giặc ngoại xâm mà đồng lòng duy trì học tập”.

Thầy giáo trẻ ngày đó tuổi đôi mươi, tài sản duy nhất chỉ là chiếc xuồng be bảy, cây dầm, 1 thùng sắt đựng sách vở, 1 cái nóp (cái mùng) và 2 bộ quần áo. Ấy vậy mà hành trình truyền con chữ của thầy giáo vẫn luôn vững vàng vượt qua mọi khó khăn, vừa dạy học nhưng cũng vừa chống giặc. Xung quanh ngôi trường 2 lớp học, lúc nào cũng được đào sẵn công sự chữ L, hễ phát hiện có giặc càn quét, bắn phá là thầy giáo đưa từng học sinh xuống công sự an toàn rồi mới trốn xuống sau cùng với các em.

Nhắc đến đây, giọng ông nghẹn ngào, lời kể ngắt quãng: “Chắc có lẽ suốt cuộc đời mình, khoảng thời gian làm thầy giáo thời chiến là điều tôi tự hào nhất. Lúc ấy gian khó nhưng tình cảm thầy trò gắn bó, giản đơn nhưng thấm đẫm. Ði dạy học, bom đạn dội đầu, bữa no bữa đói. Nhớ có lúc 5 ngày trời thầy, cô giáo chúng tôi chỉ ăn đúng 2 bữa cơm gạo lứt xin của người dân. Vậy mà không một ai nản lòng. Càng khó khăn, chúng tôi càng nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ. Thầy trò nương tựa nhau vì ai cũng nghèo khó, lắm lúc nhà trò chỉ có món bánh dừa, bánh chuối mang lại trường tặng thầy cô giáo, vậy mà ai cũng vui”. 

Cuộc sống của vợ ông Tám Hồng an nhàn, vui vầy bên con cháu.

Ông Tám kể tiếp: “Sau năm 1973, tôi được trở về ấp Rau Dừa B, tiếp tục tham gia đội thông tin cổ động và vừa dạy học. Lúc đó, toàn xã Hưng Mỹ có 14 giáo viên. Ðến năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, tôi vẫn tiếp tục dạy học trường làng và nhận lương đầu tiên là 30 đồng/tháng. Khoảng thời gian đó, Ban Giáo dục địa phương tiếp tục phát động phong trào “diệt giặc dốt” nên mỗi ngày giáo viên chúng tôi phải dạy 3 buổi. Dù vất vả nhưng giáo viên ai cũng một lòng truyền dạy kiến thức cho người dân từ trẻ nhỏ cho đến cụ già”.

Cứ chập choạng tối, từ những nhánh sông, bìa rừng lại thấy ánh sáng ngọn đuốc như bầy đom đóm của học sinh đến tham gia lớp học ban đêm. Lớp học nhộn nhịp, người biết chữ dạy người chưa biết chữ, từ trẻ đến già ai cũng nhiệt tâm tham gia để tiếp tục đẩy lùi “giặc dốt”. Thấm thía những gian nan ấy, câu chuyện học hành thời chiến là vậy, nhưng đó sẽ là những kỷ niệm khó quên và tình cảm thầy trò bình dị nhưng chứa đựng sự thiêng liêng.

Từ năm 1977, ông Tám Hồng lập gia đình và tiếp tục được cử đi học quản lý ở Bạc Liêu (lúc đó còn là tỉnh Minh Hải). Hoàn thành khoá học hơn 1 năm, ông trở về làm Hiệu trưởng Trường Phổ thông cơ sở cấp 1, cấp 2 tại xã Bình Mỹ, huyện Cái Nước. Sau năm 1984, ông được rút về Huyện uỷ Cái Nước, kinh qua nhiều vị trí khác nhau và đến năm 1992 ông xin nghỉ hưu vì hoàn cảnh gia đình.

Vợ ông là bà Nguyễn Tuyết Mai, cũng là một giáo viên thời kháng chiến. Năm 16 tuổi bà làm giao liên Xã uỷ Hưng Mỹ và làm giáo viên dạy trường làng thuộc ấp Thị Tường B. Mỗi người một nơi cùng tham gia kháng chiến, cùng làm nghề gõ đầu trẻ thời đánh giặc nên cả hai luôn thấu hiểu, đồng cảm.

Vợ chồng ông kết hôn năm 1977, cuộc sống gia đình lúc đó gặp vô vàn khó khăn. Vật lộn với cuộc sống nhưng cả hai nỗ lực hết mình vì sự nghiệp giáo dục. Ðến năm 1992, do sức khoẻ cha mẹ già và lo cho tương lai 4 đứa con thơ nên ông Tám quyết định nghỉ hưu sớm để nhường vợ tiếp tục công tác giảng dạy.

“Lúc đó, ông nhà tôi nghỉ hưu sớm, 2 năm sau tôi cũng nghỉ hưu. Thời gian đó, vợ chồng tôi buôn bán đủ thứ mới có thể lo cho gia đình 8 nhân khẩu. Chật vật, khó khăn nhưng vợ chồng tôi quyết tâm nuôi các con ăn học thành tài. Mừng một điều là con tôi đứa nào cũng ngoan ngoãn nên giờ vợ chồng tôi vui mừng lắm. Gẫm lại cuộc đời dành hết tuổi thanh xuân cho trường lớp, học trò, là điều mà chúng tôi không hề hối tiếc. Giờ đây khi về hưu, tài sản lớn nhất của vợ chồng tôi là các con đã trưởng thành, học hành đàng hoàng, trình độ đại học, thạc sĩ, cuộc sống các con đều ổn định”, bà Mai tâm tình.

Sau thời gian nghỉ hưu không bao lâu, bà Mai tham gia Hội Cựu giáo chức xã, năm 1999 bà được bầu giữ chức Phó chủ tịch Hội Cựu giáo chức xã. Ðến năm 2015, bà được tín nhiệm vị trí Chủ tịch Hội Cựu giáo chức và Chủ tịch Khuyến học xã cho đến bây giờ.

Trong quá trình công tác, cả ông bà đều nhận được Huân, Huy chương Kháng chiến hạng Nhất, cùng nhiều giấy khen, bằng khen, Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp giáo dục.

“Trải qua nhiều biến cố, thăng trầm khi gắn đời mình cho sự nghiệp giáo dục, vợ chồng tôi trân trọng khoảng thời gian đó. Giờ đây, khi cuộc sống về già an nhàn nên cả vợ chồng tôi mong muốn góp một phần công sức của mình tiếp tục chăm lo cho giáo dục. Hàng năm, chúng tôi đều họp mặt các hội viên cựu giáo chức, tuy người mất người còn, người già yếu bệnh tật, nhưng đó là trách nhiệm và còn là niềm vui để gắn kết những giáo viên thời kháng chiến. Bên cạnh đó, chúng tôi còn vận động mạnh thường quân đóng góp giúp đỡ hội viên khó khăn, trao tặng những suất quà hiếu học để nâng bước các em học sinh nghèo vượt khó trên địa bàn”, bà Mai bày tỏ.

Lắng nghe những chia sẻ của ông bà, càng thấy khâm phục những nỗ lực của những giáo viên thời chiến khi vừa dạy học vừa cùng Nhân dân đánh giặc. Mỗi một giai đoạn, hành trình bước qua của ông bà là một dấu ấn khó phai mờ về nghề dạy học. Có lẽ trong tiềm thức của những cựu học sinh luôn hiện diện hình ảnh người thầy giáo, cô giáo không ngại gian khó dày công truyền dạy kiến thức trong thời kháng chiến ác liệt. Giờ đây, cuộc chiến đã lùi xa nhiều năm, giáo dục gặp nhiều thuận lợi, nhưng ông bà vẫn nặng lòng khi thấy còn nhiều học sinh hoàn cảnh khó khăn cần được trợ lực. Những món quà trao tay, ông bà mong muốn góp một phần sức mình để các em không dở dang chuyện học hành, tiếp tục hành trình đi tìm tri thức./.

 

Hằng My

 

Liên kết hữu ích

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...