Tôi biết tác giả Tiết Văn Dũng gần 20 năm, khi tác giả viết bài ca vọng cổ Máu chảy ruột mềm để kêu gọi những tấm lòng từ thiện cứu trợ nạn nhân do cơn bão số 5 năm 1997 gây ra. Sau đó, Tiết Văn Dũng viết bản vọng cổ Lãng mạn Cà Mau hưởng ứng cuộc thi do UBND tỉnh Cà Mau phát động vào năm 2000.
Tôi biết tác giả Tiết Văn Dũng gần 20 năm, khi tác giả viết bài ca vọng cổ Máu chảy ruột mềm để kêu gọi những tấm lòng từ thiện cứu trợ nạn nhân do cơn bão số 5 năm 1997 gây ra. Sau đó, Tiết Văn Dũng viết bản vọng cổ Lãng mạn Cà Mau hưởng ứng cuộc thi do UBND tỉnh Cà Mau phát động vào năm 2000. Lãng mạn Cà Mau là bản vọng cổ mà tôi rất yêu thích. Năm 2001, Tiết Văn Dũng viết vở cải lương Hào khí Nam Kỳ được hãng phim Tây Ðô và các nghệ sĩ TP Hồ Chí Minh thực hiện phục vụ công chúng. Ðến năm 2010, Tiết Văn Dũng viết chặp cải lương Rạng ngọc Hòn Khoai, được UBND tỉnh Cà Mau trao tặng giải Nhất.
Tôi được hân hạnh là Tiết Văn Dũng khi viết xong tác phẩm lại đem đến cho tôi xem bản thảo trước tiên. Vào tháng 1/2011, tôi và anh Nguyễn Hoe gặp Văn Dũng đàm luận. Chúng tôi động viên tác giả viết về Anh hùng LLVTND Bông Văn Dĩa bằng thể loại truyện phim, vì tác giả quê hương Rạch Gốc lại là thân nhân biết nhiều về ông Bông Văn Dĩa. Văn Dũng từ chối, vì từ trước giờ chưa viết kịch bản phim và sức mình có giới hạn, sợ không kham nổi đề tài đồ sộ này! Nguyễn Hoe động viên, nhấn mạnh thêm: “Qua trao đổi, Văn Dũng biết khá nhiều về ông Bông Văn Dĩa, nếu không viết chẳng những có lỗi với ông, mà còn có lỗi với quê hương Rạch Gốc - Tân Ân”.
Sau gần 1 tháng, vào buổi sáng, Văn Dũng mang tập giấy viết tay qua nhà tôi, nhờ tôi xem và góp ý. Ðó là kịch bản phim Anh hùng của biển, tập 1, mang tên Con nuôi.
Chân dung Anh hùng LLVTND Bông Văn Dĩa do Hoạ sĩ Ngô Thanh Hùng thể hiện; Tượng đài đường Hồ Chí Minh trên biển của Nhà điêu khắc Trần Thanh Phong. |
Sau mỗi tuần lễ, Văn Dũng mang tiếp tập 2, tập 3... Qua hơn 1 năm, tôi đọc được tập thứ 48, là tập sau cùng được mang tên Quê hương.
Xem qua 48 tập kịch bản phim Anh hùng của biển, tôi hiểu thêm về Anh hùng LLVTND Bông Văn Dĩa. Ông đúng là người anh hùng có bề dày lịch sử tầm cỡ của quê hương Ðất Mũi Cà Mau, mảnh đất tận cùng cực Nam Tổ quốc. Nơi hẻo lánh xa xôi miệt biển đã sinh ra người con anh hùng cần cù, mộc mạc, ít nói hay làm, cuộc đời ông thật sự là bản anh hùng ca của miền Ðất Mũi.
Ý chí của con người cũng như đất đai nơi đây luôn vươn xa ra biển. Thầm lặng, kiên nhẫn, miệt mài không có sức mạnh nào và bất cứ thế lực nào làm chuyển lay hay bắt dừng lại được. Ðất và người đã hoà quyện, hun đúc nên ý chí người Anh hùng Bông Văn Dĩa.
Có thể tóm tắt các mốc sự kiện tiêu biểu ở Anh hùng LLVTND Bông Văn Dĩa qua phim như sau:
Năm 1939, ông đưa thầy giáo Hiển ra Hòn Khoai dạy học, ẩn nhẫn đợi thời cơ hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.
Ngày 11/12/1940, ông cùng một số đồng chí dùng ghe lưới của nhà ông mang nghị quyết thượng khẩn của Tỉnh uỷ Bạc Liêu, mặc sóng to gió lớn, đến Hòn Khoai trao cho thầy giáo Hiển. Và 23 giờ ngày 13/12/1940, nổ ra cuộc khởi nghĩa cướp Hòn Khoai.
Ông Bông Văn Dĩa luôn luôn chấp hành mọi nhiệm vụ quan trọng của Ðảng phân công, thầm lặng giữ gìn bí mật để thực hiện hoàn thành kế hoạch được giao. Cuộc khởi nghĩa bất thành, 10 đồng chí của ông lãnh án tử hình, còn ông cùng 27 đồng chí bị lưu đày Côn Ðảo.
Ngày 2/9/1945, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Ðộc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Ông cùng các đồng chí từ Côn Ðảo trở về tiếp tục đấu tranh.
Năm 1946, cuộc kháng chiến toàn quốc lần thứ 2, ông được trao trọng trách cùng ông Dương Quan Ðông (Dung Văn Phúc) mang vàng và tiền sang Xiêm La (Thái Lan), tìm mua vũ khí và xây dựng cơ sở chế tạo vũ khí để chuyển về nước đánh giặc Pháp. Ðồng thời, tổ chức con em kiều bào hải ngoại thành lập Tiểu đoàn Trần Phú - Cửu Long, trang bị vũ khí đầy đủ đưa về nước tham gia kháng chiến.
Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết, đất nước chia làm 2 miền Nam - Bắc, ông được phân công ở lại miền Nam chôn cất vũ khí và giữ gìn một số vàng, tiền để làm kinh phí gây quỹ phục vụ cho công cuộc bấy giờ. Ông vô cùng liêm khiết trong việc gìn giữ tiền, vàng và tạo phúc lợi để gây quỹ; cũng như việc bảo vệ đồng chí Lê Duẩn ở lại miền Nam, ông gần gũi, tận tuỵ, trung thành, sáng kiến, bảo vệ an toàn.
Ðến năm 1957, ông được phân công nhiệm vụ liên lạc bán công khai. Ðể tạo điều kiện thuận lợi, hợp pháp, ông đưa cả vợ con xuống chiếc ghe tam bản trọng tải hơn 3 tấn để tìm các mối quan hệ nối lại đường dây tổ chức. Ðồng thời ông tìm lại nơi chôn giấu vũ khí, đào lên và mang về căn cứ để thành lập lực lượng vũ trang (lúc ấy được gọi là lực lượng giáo phái: Tiểu đoàn Ngô Văn Sở, Tiểu đoàn Ðinh Tiên Hoàng) nhằm chuẩn bị cuộc đấu tranh vũ trang đang đến thời cơ chín muồi. Có những lúc ghe ông chuyển vũ khí (đào được) đi ngang qua đồn bót giặc (dưới khoang ghe là súng đạn, tài liệu, bên trên được nguỵ trang bằng dừa khô, chuối, mía), bị bọn chúng khám xét, lúc ấy sinh mạng của ông, vợ con ông ngàn cân treo sợi tóc, gang tấc trong sinh tử; nhưng ông thật bình tĩnh, gan dạ, có sáng kiến đối phó nên bao lần đều vượt qua nguy hiểm, hoàn thành trọng trách.
Ngày 31/7/1961, ông được Khu uỷ giao nhiệm vụ mới vô cùng quan trọng, vẻ vang, nhưng hết sức nguy hiểm, gian lao, đó là vượt biển ra miền Bắc để gặp Trung ương Ðảng xin vũ khí về đánh giặc giải phóng miền Nam. Bằng chiếc ghe biển trọng tải 6 tấn, được trang bị 1 cánh buồm và gắn máy Yanmar 8 CV, chở 2 tấn gạo, ông cùng 6 đồng chí vượt biển ra Bắc.
Và sau đó, cũng bằng chiếc ghe buồm có gắn máy ấy, ông trở về quê nhà và tìm nơi xây dựng căn cứ cất giấu vũ khí và tìm chọn vàm sông kín đáo vừa có độ sâu bảo đảm cho tàu miền Bắc chuyển vũ khí vào an toàn.
Ðến ngày 26/7/1962, ông được Bộ Chính trị chỉ định đích danh ra miền Bắc để báo cáo về việc mở đường, vẽ hải đồ, kẽ đường tàu vào Bến Cà Mau và chọn vàm sông, bến bãi để đoàn tàu 125 hải quân đưa vũ khí vào. Cùng đi, có 6 đồng chí.
Vào đêm 10/10/1962, ông cùng với ông Lê Văn Một và 10 đồng chí mở chuyến hành trình đầu tiên chở 30 tấn vũ khí trên con tàu Phương Ðông I cặp bến Vàm Lũng, xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển. Qua 8 ngày đêm vượt nhiều nguy hiểm gian lao, ông và đồng đội đã hoàn thành chuyến tàu mở đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển.
Tiếp theo là tàu Phương Ðông II, tàu Phương Ðông III, tàu Phương Ðông IV. Trong thời gian 2 tháng, 4 con tàu đã đưa 150 tấn vũ khí vào Bến Vàm Lũng an toàn. Số vũ khí này đã làm nên những trận đánh lớn như: Ấp Bắc, Chà Là, Cái Nước, Ðầm Dơi, Trí Phải… vang dội chiến công.
Con đường Hồ Chí Minh trên biển mang nhiều thắng lợi, nhưng có lúc tưởng chừng không vượt qua được. Từ năm 1968-1971, ta tự phá huỷ 7 con tàu để bảo toàn bí mật con đường, cũng như vũ khí của ta không để lọt vào tay giặc. Bộ Tổng tham mưu chỉ thị cho Ðoàn 125 Hải quân kết thúc việc vận chuyển vũ khí bằng tàu sắt của Ðoàn tàu 125 trên biển.
Với quyết tâm cao, càng nguy hiểm khó khăn càng tỏ rõ ý chí và sự sáng tạo, ông Bông Văn Dĩa và ông Phan Văn Nhờ (Tư Mao) mở ra con đường vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam cũng như đưa rước cán bộ vô ra 2 miền Nam Bắc bằng con đường bán công khai với tàu đi biển 2 đáy.
Việc vận chuyển bằng tàu 2 đáy bán công khai thành công trót lọt, nhưng cũng có ít lần phải trả giá rất đắc cho sự phản bội, cũng như bất trắc vì thời tiết bão tố, kỹ thuật máy móc, tàu bè. Nhưng ý chí sắt đá không ngại hy sinh gian khổ với khối óc thông minh, mưu lược của người lãnh đạo anh hùng, đã vượt qua bao thử thách, đưa đoàn tàu vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam an toàn.
Qua kịch bản phim Anh hùng của biển thấy rõ hơn những phẩm chất cao đẹp của Anh hùng LLVTND Bông Văn Dĩa. Ðó là tấm lòng trung kiên, sự liêm khiết, dũng cảm, mưu trí, hết lòng vì Ðảng, vì dân, vì đồng đội, đồng chí thân yêu. Ông luôn lãnh phần trọng trách hiểm nguy trong công tác, cũng như không màng bạc vàng, vật chất; luôn san sẻ, nhường nhịn cho đồng đội, đồng chí những phần lẽ ra thuộc về mình.
Sau ngày giải phóng, ông về hưu ở Rạch Gốc - Tân Ân. Bộ Tư lệnh Quân khu 9 thấy nhà ông hư mục, mưa dột nên tặng ông 70 tấm lợp Fipro xi-măng và 5 khối gỗ dầu, tàu Quân khu chuyển xuống tận Rạch Gốc cho ông.
Ông chân thành cảm ơn lãnh đạo Quân khu đã chiếu cố hoàn cảnh gia đình ông và đề nghị chỉ nhận trên phần tinh thần, còn hiện vật gỗ và tấm lợp ông xin nhường lại cho đồng chí, đồng đội còn khó khăn hơn gia đình ông. Và hàng hoá được chuyển về lại Quân khu.
Ông xử sự đúng như bật chính nhân quân tử: “Bần tiện bất năng di - Uy vũ bất năng khuất”. Một con người mộc mạc, giản dị, ít nói, làm nhiều, nghiêm khắc mà không độc đoán; vị tha, gần gũi với mọi người. Ở ông chứa đựng một tâm hồn liêm khiết, thanh cao, bản lĩnh anh hùng. Chính khí trời phương Nam, biển cả thiêng liêng của Ðất Mũi Cà Mau đã hun đúc nên tâm hồn người Anh hùng Bông Văn Dĩa, người con ưu tú của quê hương, người chiến sĩ dũng cảm kiên cường, người đảng viên xuất sắc, trọn đời trung với Ðảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng bị ông khuất phục.
Tấm gương, việc làm của ông được tôn tạo bằng nghệ thuật điện ảnh hết sức nghiêm túc, công phu và hoành tráng. Cùng với đó là thi ca, giáo khoa thư được biên soạn giáo dục cho thế hệ mai sau. Anh hùng LLVTND Bông Văn Dĩa là niềm tự hào vẻ vang của người dân quê hương Cà Mau - Ðất Mũi, mãi toả sáng như ngọn Hải đăng Hòn Khoai, như vì sao khuê phương Nam rực rỡ./.
Ðông Hải