ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 1-11-24 07:33:09
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

U Minh sâu nặng ân tình

Báo Cà Mau (CMO) Cà Mau nói chung, vùng đất U Minh nói riêng, trong những tháng năm chiến tranh, từng là căn cứ địa cách mạng của nhiều cơ quan, đơn vị. Dù dưới làn tên, mũi đạn, cuộc sống gian nan, nhưng đồng bào Cà Mau luôn dành cho cán bộ, chiến sĩ những tình cảm nồng cháy yêu thương, chan chứa tình quân dân. Bởi vậy, năm tháng đã đi qua, nhưng nhiều cán bộ, bộ đội vẫn mãi khắc ghi trong tâm khảm những nghĩa tình ấm áp, sâu sắc của quân và dân U Minh, Cà Mau. Tháng Tư lịch sử, nhiều người bùi ngùi thương nhớ đất U Minh.

…Tháng Tư lịch sử, tôi tìm đến nhà Ðại tá Bùi Lưu, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn Sông Hương (phường An Thới, quận Bình Thuỷ, TP Cần Thơ), nghe ông tâm sự: “Trong cuộc đời binh nghiệp, tôi đã hành, trú quân qua rất nhiều địa phương, vùng đất. Ở đâu, tôi và đồng đội cũng đón nhận biết bao tình cảm yêu thương, đùm bọc của đồng bào, sự sẻ chia, giúp đỡ của đồng đội. Song, với đất U Minh (Cà Mau), Nhân dân và cán bộ chính quyền nơi ấy, đã để lại trong tôi ơn sâu, nghĩa nặng. Ân tình của đồng bào U Minh không chỉ tiếp thêm ý chí chiến đấu, mà còn trang bị cho chúng tôi nhiều kinh nghiệm quý báu khi hành, trú quân trên địa hình sông nước. Bởi vậy, chiêm ngẫm câu thơ “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở /Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!” trong bài “Tiếng hát con tàu” của Nhà thơ Chế Lan Viên, tôi càng thấm thía tình đất, tình người U Minh. Tôi nhận thấy mảnh đất ta từng sống, như một người bạn tri kỷ, một quê hương thứ hai, khi đi xa, lưu luyến khôn nguôi, dường như tâm hồn mình đã lưu lại nơi đó”.

Chiến sĩ Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 10 trong giờ huấn luyện.

Góp phần bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám, Trung đoàn Sông Hương, thuộc Sư đoàn 5, được hình thành vào cuối năm 1945, tại tỉnh Quảng Trị, mảnh đất lắm nắng, nhiều mưa. Tại đây, lớp lớp cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn, luôn nêu cao khí thế “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, lập nên nhiều chiến công vang dội khắp các chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa. Trong giai đoạn đánh đuổi quân xâm lược Mỹ, Trung đoàn tham gia chiến đấu và lập nên chiến công oanh liệt tại các chiến trường Tây Nguyên và miền Ðông Nam Bộ. Những địa danh: Ðức Lập, Long Khánh, Khe Giao... mãi lưu truyền những trận đánh của Trung đoàn Sông Hương.

Nhằm chặn đứng và bẻ gãy Chiến dịch “Nhổ cỏ U Minh”, năm 1970, Trung đoàn Sông Hương nhận lệnh của Chỉ huy Miền hành quân về đất U Minh. Rời chiến trường miền Ðông “gian lao mà anh dũng”, Trung đoàn băng qua bao sông sâu, núi cao, với hàng ngàn cây số, từ miền Ðông đất đỏ, qua các tỉnh Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang. Trên đường hành quân, đơn vị liên tiếp gặp phải quân giặc. Vừa đi, vừa chiến đấu, trận địa nào Trung đoàn cũng làm cho quân địch tổn thất nặng nề, tiêu hao nhiều vũ khí và sinh lực. Cứ thế, ròng rã hơn 4 tháng trời, đến cuối tháng 4/1970, các đơn vị thuộc Trung đoàn Sông Hương lần lượt chạm chân đến vùng đất tràm xanh, nước đỏ U Minh. Các đơn vị trực thuộc Trung đoàn trú quân tại một số xã thuộc huyện Trần Văn Thời, như Khánh Bình Ðông, Khánh Bình Tây (giai đọan 1970, huyện Trần Văn Thời chưa chia tách, rừng tràm U Minh rộng lớn).

Ðón đơn vị vũ trang thuộc Chỉ huy Miền đầu tiên về chiến đấu trên đất U Minh, cán bộ, chính quyền, quân và dân Cà Mau vui mừng khôn xiết, mọi người thầm hiểu và cảm ơn Bác Hồ, Trung ương Ðảng đang tiếp lửa cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ, giải phóng quê hương, thống nhất non sông.

Trước đó, Quân khu 9 đã xây dựng lực lượng, cung cấp lương thực, trang bị phương tiện, vũ khí, tiếp sức để Trung đoàn Sông Hương (phiên hiệu là D10, nên nhiều người thường gọi với cái tên D10) đủ điều kiện chiến đấu. Về phía trung đoàn, ngay sau khi ổn định đội hình, đã giáng cho kẻ thù những đòn chí mạng. Trận mở màn, trung đoàn tiêu diệt Chi khu Giá Ngựa và đồn Cồi thuộc huyện Trần Văn Thời, làm cho quân địch bạt vía, kinh hồn.

Sau đó, các đồn bót như: Ông Tự, Vàm Ðình, Chi khu Rau Dừa, Chi khu Rạch Ráng thuộc các huyện  Cái Nước, Trần Văn Thời, các đồn ở huyện Giòng Riềng, Gò Quao, Vĩnh Thuận (tỉnh Kiên Giang) lần lượt bị triệt hạ. Trung đoàn phối hợp cùng lực lượng du kích gỡ, bóc từng mảng đồn bốt giặc, tiêu diệt lực lượng bảo an, phòng vệ trên tuyến lộ Ba Ðình - Vĩnh Tuy, mở ra vùng giải phóng rộng lớn ở U Minh Hạ và U Minh Thượng.

Những chiến công của Trung đoàn D10, như hoa mùa xuân nở rộ, làm nức lòng Nhân dân Cà Mau. Ðại tá Ðàm Thuỷ Nguyên, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7, D10, nhớ lại: “Tình cảm yêu thương bộ đội của bà con vùng căn cứ Cà Mau đáng quý lắm. Hồi đó, sáng sáng bà con ở gần các đồn chèo xuồng bồng bế nhau ra vùng đệm tránh bom đạn, đều dặn dò trong nhà, trong vườn có gì, mấy con cứ tự nhiên dùng; ăn no, có sức khoẻ để đánh giặc nghen tụi bây! Chiều về, thấy đồn bốt giặc bị triệt phá, quân địch tháo chạy, các má, các ba vui mừng đưa lương thực đến tiếp tế, rồi ôm chầm lấy bộ đội khen ngợi Bộ đội Cụ Hồ đánh giặc giỏi quá, hay quá”.

2 năm sống giữa lòng dân U Minh, càng chiến đấu càng hăng say, trận đánh nào bộ đội Trung đoàn D10 cũng lập nên chiến công hiển hách, khiến quân giặc hoảng sợ. Phát huy tư tưởng chỉ đạo và chiến thuật chiến đấu của bộ đội đặc công “Nở hoa trong lòng địch”, các tiểu đoàn trực thuộc của Trung đoàn D10 đã diệt gọn nhiều đồn giặc, như Ðất Cháy (Phong Lạc, Trần Văn Thời), Xẻo Tre (Cái Nước), rồi Bà Thầy, Nổng Cạn thuộc tỉnh Cà Mau. Trung đoàn đã  đánh quỵ Sư đoàn 21 của nguỵ, góp phần phá vỡ và đẩy lùi các chiến dịch “Nhỏ cỏ U Minh”, “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, nguỵ.

Tiếng lành đồn xa, trước những chiến công vẻ vang của bộ đội D10, những năm 1971-1972 và sau này, rất nhiều con em Cà Mau tình nguyện tòng quân vào D10 chiến đấu. Ðại uý Lê Văn Kiệm, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trinh sát Trung đoàn Sông Hương - Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, nhớ lại: “Lúc đó tôi mới 18 tuổi, tham gia du kích địa phương, nghe các anh, các chú kể chiến thuật, chiến công của bộ đội D10 quá giỏi, tôi mê lắm. Biết tin đơn vị tổ chức thêm đại đội, tôi liền tòng quân vào đơn vị chủ lực, có lẽ là đơn vị vũ trang duy nhất vào thời điểm ấy".

Chỉ sau 1 tháng tuyển quân, D10 đã có 100 quân nhân nữ tình nguyện phục vụ quân đội. Nữ Ðại uý Nguyễn Thị Hồng Nga, nguyên cán bộ quân y của trung đoàn, kể: “Ba đi tập kết chưa về, tôi luôn nhớ ba, mong muốn công tác ở đơn vị có bộ đội người miền Bắc để tìm hiểu cuộc sống của bà con ngoài ấy, nên tôi xin chuyển công tác từ một đơn vị y tế địa phương về D10”.

Chiến sĩ Trung đoàn 10 trên thao trường.

Nhiều, nhiều lắm những câu chuyện đẹp, những nghĩa tình thân thương sâu lắng trong lòng Nhân dân Cà Mau dành cho Trung đoàn Sông Hương. Trong đó, không ít mối nhân duyên nồng thắm của anh bộ đội D10 tác thành với cô gái Cà Mau.

Ðền đáp, tri ân, tình cảm của quân và dân Cà Mau, bộ đội D10 luôn nêu cao phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, liên tiếp giành chiến thắng. Rời chiến trường Cà Mau, bước chân của bộ đội D10 tiếp tục hành quân và chiến đấu tại các chiến trường Chương Thiện, Long Mỹ (Hậu Giang), lộ Vòng Cung (Cần Thơ), góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ghi nhận những chiến công và thành tích của đơn vị, tháng 9/1973, trung đoàn và 2 đơn vị, gồm Ðại đội 3 và Tiểu đoàn 7, được Ðảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

Ðáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng chủ lực phục vụ chiến đấu, tháng 8/1974, Quân khu 9 thành lập Sư đoàn bộ binh 4, sư đoàn chủ lực đầu tiên của miền Tây Nam Bộ, gồm 3 trung đoàn, trong đó có Trung đoàn bộ binh 10. Tại đây, đơn vị được Quân khu giao nhiệm vụ cải tạo, khai hoang vùng tứ giác Long Xuyên. Sau đó, tham gia đánh đuổi giặc Pôn Pốt trên chiến trường biên giới Tây Nam.

Ngày nay, Trung đoàn bộ binh 10 được Quân khu giao nhiệm vụ tiếp nhận, huấn luyện chiến sĩ mới và sẵn sàng chiến đấu. Mùa nhận quân năm 2021, Trung đoàn tiếp nhận hơn 270 chiến sĩ, trong đó, có hơn 70 chiến sĩ con em Cà Mau. Theo Thượng tá Nguyễn Trung Sơn, Chính uỷ Trung đoàn bộ binh 10, tiếp nối và phát huy truyền thống vẻ vang của Trung đoàn anh hùng, cán bộ, chiến sĩ tiếp tục phấn đấu, rèn luyện. Do vậy, trung đoàn liên tục hoàn thành nhiệm vụ, năm 2020, đơn vị đạt danh hiệu "Ðơn vị vững mạnh toàn diện”./.

 

Hồ Trúc Ðiệp

 

Những "ngôi nhà cách mạng"

Thời chiến tranh chống giặc ngoại xâm, Cà Mau là căn cứ địa đặc biệt quan trọng đối với phong trào cách mạng cả nước. Từ thành thị đến làng rừng có rất nhiều địa điểm ghi dấu ấn, nay là di tích lịch sử cách mạng.

Chuyện xin giống cây vú sữa trồng ở Phủ thờ Bác

Tại Phủ thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, xã Trí Lực, huyện Thới Bình (mọi người thường gọi thân thương là “Phủ thờ Bác xã Trí Lực”), hiện có cây vú sữa được nhân giống từ cây vú sữa của má Lê Thị Sảnh (Ấp 10, xã Trí Phải, huyện Thới Bình) gửi Tiểu đoàn 307 mang ra miền Bắc tặng Bác Hồ trên chuyến tàu tập kết năm 1954. Cây vú sữa này cũng đã cho trái từ mấy chục năm qua, khắc sâu thêm tình cảm thiêng liêng của người dân Cà Mau đối với Bác. Thế nhưng, chuyện xin cây vú sữa mang về trồng như thế nào và từ khi nào, cũng là thắc mắc của nhiều người.

Vụ thảm sát Cái Sắn qua lời kể của nhân chứng U100

Ông Phạm Văn Quang (Hai Quang), Chủ tịch Hội Khuyến học huyện Thới Bình, là người tâm huyết với công tác khuyến học, hầu như khóm, ấp nào trong huyện cũng có bước chân ông. Một hôm, ông phấn khởi điện cho tôi: “Chú biết có ông cụ này tuổi hơn 90, còn minh mẫn lắm, biết rất nhiều chuyện xưa của vùng đất Thới Bình, trong đó có vụ thảm sát ở Cái Sắn. Sắp xếp rồi chú đưa đi gặp cụ”.

Việt Nam trân trọng độc lập, phát triển bền vững

Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và toàn thế giới ngày 2/9/1945 đã khẳng định Việt Nam là một quốc gia tự do, độc lập. Ở đó người dân có quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc… Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…

Tự hào 79 mùa thu lịch sử

Cách đây 79 năm, với thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Ðộc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, ngày 2/9/1945 trở thành ngày Tết độc lập đầu tiên của Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh - thời đại của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước với ánh sáng chân lý của sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và Ðảng ta soi đường, dẫn lối. Một mùa thu vạch ngang lịch sử, được lịch sử lựa chọn để đi vào bất tử.

Tri ân hai vị lãnh đạo nghĩa quân

Những ngày tháng Tám lịch sử, chúng tôi có dịp tháp tùng cùng Nhà báo Ðỗ Văn Nghiệp (Sáu Sơn), hiện là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Kể chuyện lịch sử (do Bảo tàng tỉnh thành lập) về thăm, thắp hương tại Khu tưởng niệm hai lãnh đạo nghĩa quân, Ðỗ Thừa Luông - Ðỗ Thừa Tự (toạ lạc tại ấp Bùng Binh, xã Hoà Thành, TP Cà Mau) - Di tích lịch sử cấp tỉnh.

Món quà nghĩa tình tri ân mẹ

Thiêng liêng gì bằng Tổ quốc và mẹ. Mẹ đã cống hiến tuổi xuân, tài sản lớn nhất là chồng, là con cho Tổ quốc. Bằng tấm lòng tôn kính, cảm phục, việc xuất bản quyển kỷ yếu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh Cà Mau” thể hiện trách nhiệm và là món quà mang nặng nghĩa tình của Ðảng bộ và Nhân dân tỉnh Cà Mau gửi đến các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) còn sống, thay nén tâm hương dâng lên những mẹ đã khuất.

Chuyện về liệt sĩ nằm lại vùng đất lửa

Cách đây 5 năm, trong chuyến về nguồn cùng Tỉnh đoàn Cà Mau, đó là lần thứ 3 tôi được đặt chân đến Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn (tỉnh Quảng Trị). Mang theo tấm lòng của người con miền Nam đến thắp nén tâm hương cho những vị anh hùng của Tổ quốc, như một sự tình cờ kỳ diệu, giữa hơn 10 ngàn ngôi mộ liệt sĩ nằm lại ở vùng đất lửa, đoàn chúng tôi bất ngờ tìm được một phần mộ đặc biệt. Ðó chính là nơi an nghỉ của Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Xinh, quê tại xã Tân Lộc, huyện Thới Bình.

Những địa chỉ thiêng liêng

Trong 2 cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, lớp lớp những người con Cà Mau lên đường đánh giặc, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Ðể đổi lấy ngày độc lập, chỉ trên quê hương Cà Mau đã có 17.678 liệt sĩ, 16.467 thương binh, 2.510 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gần 17 ngàn người đang hưởng trợ cấp hằng tháng.

Làm đẹp địa chỉ đỏ

Trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt, xương máu của lớp lớp thế hệ ông cha đã thấm đẫm trên từng tấc đất quê hương. Ðể tưởng nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ, tại các xã, thị trấn trong huyện Ngọc Hiển đều xây dựng các đài tưởng niệm, nhà bia ghi danh liệt sĩ. Những công trình này vừa thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, vừa góp phần giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của dân tộc cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.