(CMO) Đối với ông Đặng Tấn Ảnh (Tư Ảnh), Bác là luôn là niềm tin của mọi hành động từ ngày ông mới thoát ly gia đình đi kháng chiến cho đến hôm nay ở tuổi 84. Chiếc áo ngày thọ tang Bác mà ông mặc được thêu những dòng chữ kỷ niệm vẫn còn giữ đến hôm nay như một báu vật. Dù trải qua thời hậu chiến đói ăn thiếu mặc nhưng chiếc áo vẫn được gìn giữ vẹn nguyên.
Chị Nguyễn Thanh Lam, nhân viên quản lý hiện vật Bảo tàng tỉnh Cà Mau thuyết trình về 2 chiếc áo quý giá của ông Đặng Tấn Ảnh. Ảnh: Nhật Minh
Ông Tư Ảnh nói: “Có Bác, tao mới đủ sức đi qua 2 cuộc chiến: chống ngoại xâm và chống đói nghèo. Giờ tao “nghỉ hưu toàn diện” rồi, nhưng vẫn giáo dục con cháu rằng, chỉ có Người và tin vào Người mới có ấm no, hạnh phúc”.
Trong gian nhà gỗ, nền gạch tàu khá rộng tại Vàm Khâu Bè, ấp Giáp Nước A, xã Phú Thuận, huyện Phú Tân, ông Tư Ảnh giành 1 vị trí trang trọng đặt bàn thờ và di ảnh Bác. Ông phân trần tại sao cả xứ này gần như người ta xây nhà tường hết rồi mà mình vẫn giữ căn nhà kê, rằng: “Ở vầy cho mát, dù tao được hỗ trợ suất Nhà tình nghĩa nhưng không xây nhà mới nên chưa nhận”.
Cũng như bao chàng trai khác thời ấy, khi mới 17 tuổi, ông bắt đầu tham gia công tác địa phương với 1 quyết tâm, sẽ đem hết sức lực và cả tính mạng phục vụ non sông tới ngày toàn thắng theo lời kêu gọi của Người.
Ông Đặng Tấn Ảnh sinh năm 1935, ở Vàm Khâu Bè, ấp Giáp Nước A, xã Phú Thuận, huyện Phú Tân trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Ông là thương binh ¾, đã nhận danh hiệu 55 tuổi Đảng 3 năm trước. Trong các anh em của ông có 1 người là liệt sĩ, 1 người là Anh hùng lực lượng VTND (ông Đặng Tấn Triệu). Ông có 1 kỷ vật quý báu trong đời - 2 chiếc áo ngày thọ tang Bác Hồ. Một chiếc quân phục và 1 chiếc áo may bằng vải lin-phăng màu xanh nước biển nhạt, trên ngực áo có tấm băng vải trắng thêu chữ màu thể hiện ngày thọ tang Bác. Hai chiếc áo này hiện Bảo tàng tỉnh Cà Mau đang lưu giữ. Dịp kỷ niệm lần thứ 112 năm sinh nhật Bác Hồ 19/5/2002, ông được vinh dự ra Thủ đô Hà Nội, vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thoả niềm thương nhớ Người... |
Năm 1959, ông thoát ly và năm 1960 được đưa đi học khoá y sĩ, trở về đơn vị quân y Trung đoàn 1 cơ động Quân khu 9. Rồi ông gặp bà Phan Thị Thu Vân, nhỏ hơn ông 3 tuổi, cùng đơn vị, nên duyên vợ chồng.
Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968 ở chiến trường lộ Vòng Cung - Cần Thơ, đơn vị quân y của ông được điều lên phục vụ tuyến đầu, bà trở về mảnh vườn xưa, cất chòi, đào hầm, sinh con và nuôi luôn con của người em kế mình. Bà kể: “Ba tôi ra “chỉ thị” chỉ có 1 đứa được ở lại nhà nuôi con. Lúc đó em kế tôi cũng vừa sinh con nên tôi nuôi luôn con của cả hai đứa, để em nó đi công tác, chứ cả 2 đứa ở nhà nuôi con hết thì kháng chiến biết chừng nào thành công”.
Ấy vậy là bà ở lại quê nhà, ngày không có tiếng bom rơi, đạn nổ thì lên khỏi hầm trồng rẫy, bắt tôm cá kiếm kế sinh nhai. Kể từ đó bà mất liên lạc ông, không bóng chim tăm cá nhưng vẫn bền gan nuôi ước vọng ngày trùng phùng.
Ông Đặng Tấn Ảnh - người đảng viên kiên trung.
Năm 1969, Trung đoàn 1 cơ động Quân khu 9 đã phá rã vùng kềm kẹp của giặc trên tuyến kênh xáng Phụng Hiệp ra tới Cái Răng. Vào ngày 4/9/1969, khi ra vườn hái rau, bỗng có chiếc “đầm già” - máy bay trinh sát L19 của địch, bay đến từ trên cao và loan tin bằng một câu ngắn gọn: “Hồ Chí Minh đã qua đời ngoài Bắc Việt”. (Thời kỳ đất nước tạm thời bị chia cắt và mặc dù đang chiến tranh ác liệt, nhưng kẻ thù không bao giờ xúc phạm Bác Hồ).
Tin đau buồn ấy đến thật đột ngột, không ai cầm được nước mắt. Ông Tư Ảnh cảm thấy rụng rời, bỏ hái rau, lội trở vô, cùng với trên 20 thương binh nằm quân y dã chiến nghẹn ngào xúc động, bật khóc nức nở thương tiếc Bác.
Suốt tuần đầu tháng 9/1969, trời đổ mưa tầm tã, tại một địa điểm trên đoạn kênh xáng Phụng Hiệp (Cần Thơ), ông có mặt trong đơn vị tổ chức trọng thể lễ truy điệu Hồ Chủ tịch. Toàn đơn vị đồng thanh “xin thề”, hạ quyết tâm biến đau thương thành hành động cách mạng, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng.
Để tỏ lòng thương tiếc vị lãnh tụ kính yêu, ông và nhiều thương binh nhờ chị em trong đơn vị, cũng nước mắt lưng tròng, ngồi thêu những dòng chữ lên ngực áo, ghi nhớ mãi ngày đau thương ấy.
Chiếc áo từ ngày thọ tang Bác Hồ trở thành kỷ vật quý báu, được ông xếp kỹ trong ba lô, mang theo suốt cuộc hành quân, chiến đấu cho đến ngày toàn thắng 30/4/1975.
Với tính khẳng khái của người Nam Bộ, ông nói: “Thắng giặc xong, tao xin phục viên. Nhưng dần dà cũng tới năm 1976 mới tạm giải quyết xong việc sau kháng chiến, mới được về. Đó là ngày 26/6/1976”.
Ông giải thích cho cái việc vừa giải phóng xin phục viên, rằng: “Tao thề dốc hết sức mình cho kháng chiến, nên giải phóng rồi tao cũng… gần hết sức. Với lại, thắng giặc nhưng chưa thắng đói nghèo nên tao về lo chuyện áo cơm”.
Trở về đời thường với cấp hàm thiếu uý quân y sĩ, ông tiếp tục tham gia công tác ở địa phương. Mảnh đất gần 7ha, mùa sa mưa, ông phát trước, bà cấy sau, quyết không bỏ khoảnh đất trống nào. 5 đứa con nữa lần lượt ra đời, phải gánh 2 vai việc nhà – việc địa phương nhưng ông bà vẫn không hề nao núng.
Vừa làm ruộng nuôi vợ con, ông vừa làm Trưởng Ban nhân dân, rồi kiêm luôn Bí thư Chi bộ ấp Giáp Nước, làm hội viên Hội Cựu chiến binh, vai nào ông cũng làm tròn. Chi bộ từ khi chỉ có 3 người, “tất cả đều nghèo”, đến khi ông bàn giao lại cho thế hệ sau thì chi bộ có gần 20 người và không ai là đảng viên nghèo nữa. Trong ấp chỉ còn vài hộ không phương kế sinh nhai, bệnh tật mới còn “mang danh” hộ nghèo.
Trong gian nhà đơn sơ của vợ chồng ông Tư Ảnh, bàn thờ và di ảnh Bác được đặt ở nơi trang trọng nhất.
Nói về hành trình gần 40 năm xây dựng lực lượng chiến thắng đói nghèo, ông nói đơn giản: “Chi bộ mỗi tháng họp 2 lần, xem những vấn đề nào còn tồn tại thì đưa ra cách phải xử lý ngay chớ không nói lý thuyết suông kiểu giáo điều. Tao học theo gương Bác là nói và suy nghĩ mọi thứ sao cho đơn giản để cùng hành động”.
Các con ông giờ đã có nơi chốn ổn định, nhà cửa khang trang. Mỗi tháng lãnh lương và phụ cấp thương binh, ông bà đều đặn mua gạo tặng ông Tám Phúc “nghèo nhứt xóm này”. Đó không chỉ là nghĩa cử “lá lành đùm lá rách” mà còn với tinh thần “đảng viên giúp đỡ hộ nghèo”, dù ông đã được miễn sinh hoạt Đảng.
Nói về “tự chuyển biến, tự chuyển hoá”, ông Tư Ảnh trầm tư: “Thời nào cũng vậy, nếu không tu dưỡng sẽ sa ngã. Lớn thuyền lớn sóng, phải nương theo đó mà tu dưỡng bản thân mình. Thời chiến, gian khổ quá cũng có người bỏ ngũ hoặc theo địch; thời bình, cũng có người ham danh, ham lợi lộc mà phản bội lời thề trước Đảng kỳ. Còn riêng tao, khi nghe tới Bác là tay chân rụng rời hết rồi, nên đâu có thể làm gì sai lệch được”.
Cái tinh thần ấy phải chăng là “xây dựng đức tin” mà từ ngữ của người nông dân chất phát như ông không thể diễn tả được?
Đối với ông Tư Ảnh, việc ấy không thể giải thích được nhưng ông tâm niệm là sống giản dị như tinh thần của Bác. Trong ngôi nhà gỗ đơn sơ tại Vàm Khâu Bè ấy luôn chứa đựng một tinh thần khẳng khái và sống vì cái chung, vì lý tưởng mà Bác đã truyền dạy.
Ông Dương Minh Vĩnh, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Cà Mau cho biết, 2 chiếc áo ngày thọ tang Bác Hồ của ông Đặng Tấn Ảnh hiện đơn vị này đang lưu giữ cẩn thận. Đó là 1 kỷ vật độc đáo, “có 1 không 2”, thể hiện sự bền gan vẹn chí vì sự nghiệp cách mạng của người dân vùng cuối trời Tổ quốc. Kỷ vật vô giá ấy là bằng chứng sống động, có giá trị rất lớn về giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Những dịp lễ quan trọng, Bảo tàng luôn trưng bày để khách đến tham quan vun đắp niềm tin, ý chí trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. |
Vĩnh Phúc