ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 23-11-24 16:10:08
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

“Chạy chợ” nhớ đồng

Báo Cà Mau (CMO) Tôi sinh ra ở Xóm Ruộng, xứ Ðầm. Tình thiệt, đất đai vườn tược đã chuyển dịch sang nuôi tôm hơn 20 năm, mà lòng tôi cứ nhớ tuổi nhỏ với đồng ruộng, bưng biền. Nghĩ mà ngộ, ba má tôi làm ruộng gần như cả đời, nhưng nghề nghiệp hiện tại ghi trong lý lịch giấy trắng mực đen để chữ “làm vuông” to đùng. Nhưng cuộc đời thì vậy, thay đổi là quy luật, chỉ có nỗi nhớ là vô chừng. Như sớm nay, cầm tờ giấy đi chợ của phường cấp theo lịch 3 ngày/lần trong thời gian giãn cách xã hội chống dịch, ghé chợ mà tính đâu lộn chỗ, đi chợ mà nhớ chợ quá chừng.

Chợ nông sản thị trấn Cái Nước bố trí buôn bán giãn cách trong bối cảnh dịch giã hoành hành.

Nhà tôi đông anh em, ba má làm đủ nghề, bươn chải nuôi sắp con lưa lứa nối tiếp nhau 6 đứa. Nhớ không lầm, má tôi “chạy chợ” Ðầm Dơi cũng đâu chục năm có lẽ. Thật ra cái nguồn gốc của nghề “chạy chợ”, hay danh từ gọi “chợ chồm hổm” hay “chợ chạy” tới nay chưa có nghiên cứu khoa học nào cất công tìm hiểu. Người ta gọi riết thành quen, mà ít ai biết bên trong đó là cả một lịch sử phong phú, thú vị. Má tôi, dù gì cũng là người trong cuộc thì giải thích nôm na, ngộ nghĩnh nhưng cũng có cái lý lắm.

Má nói, chợ ở xứ mình nơi đâu cũng vậy, ngoài chỗ vựa lớn, sạp bự, thì góc cuối chợ dành cho dân “chạy chợ” từ trong quê mang đồ ruộng, vườn ra bán. Mặt hàng của bà con toàn bộ là cây nhà lá vườn trồng được hoặc khai thác đồ đồng, đồ ruộng thiên nhiên. Vậy nên để có đồ bán, người dân vừa phải trồng trọt, sản xuất, tới lứa thu hoạch, rồi mới đem ra chợ. Vất vả hơn là những người phải đi tìm kiếm, khai thác các sản vật tự nhiên từ ngoài bưng đồng. Hễ hết buổi chợ là phải rong ruổi, lặn lội khắp chốn để tìm nguồn hàng bán cho phiên chợ kế sớm mai.

Người dân Khánh Bình Ðông, huyện Trần Văn Thời thu hoạch ngò gai.

Chợ đồng chỉ bán sớm mai, điều đó thì ai cũng biết, nhưng nó có lý do cả. Thứ nhất là người bán, bán cho lẹ đặng còn về một quãng quê xa để mà lo ruộng vườn, con cái. Thứ nữa là đồ bán của mỗi người đâu có nhiều, thế nên bán xong sớm thì về. Cái nữa là đồ đồng thì cứ bày ra đó, toàn cá sống, rau tươi, đồ dễ hư, nên đứng buổi thì coi như hết giá trị. Bữa nào bán ế, người “chạy chợ” đành bấm bụng bán liều, bán đại, bán như cho, gỡ gạc được chừng nào hay chừng đó. Kẹt quá gặp người quen, biếu luôn ăn lấy thảo mà không chút băn khoăn. Ngặt cái là đồ nhà trồng thì phải có mùa, có lứa, đồ đồng thì kiếm khi trúng, khi trật. Chưa hết buổi chợ này, người ta đã lo cho chuyện ngày mai bán cái gì, thế nên suốt ngày cứ tất tả ngược xuôi, đi không kịp thì chạy. Chạy kiếm đồ bán, chạy kịp ra buổi chợ sớm, chạy để trở về nhà... Thành ra là một nghề “chạy chợ” vậy.

Còn “chợ chạy” hay chợ “chồm hổm” được giải thích ngắn gọn, dễ hiểu hơn. “Chợ chạy” là loại chợ không chính quy, né thuế má (mà đóng thuế thì lỗ nặng, còn nói làm gì), nên gặp quản lý chợ hay công chức thuế là dân bán bỏ chạy té khói. Nói là không đóng thuế phí, nhưng người bán phải đóng tiền “chỗ ngồi”, chẳng biết xếp loại này vô phí thuế chính thống nào. Chỉ biết lâu lâu có mấy chị, cô, bà cãi lộn nhau vì chỗ ngồi bán này “tao xí”, mặc dù trên thực tế, chẳng ai có chủ quyền cả. Mỗi bận như vậy, nhân viên quản lý chợ lại giải quyết rất ổn thoả, đơn giản bằng hiệu lệnh: “Giải tán hết”. Chợ “chồm hổm” thì rõ rồi, thấy cái dáng ngồi của người bán thì biết...

Vườn nhà tôi lúc trước trồng nhiều dừa, mãng cầu gai, măng tre mạnh tông, đúng mùa thì còn có xoài, ổi... Má tôi bẻ thêm bình bát chín, trái giác, róc lá chuối, nhổ bông súng, rau đồng các loại... để mang ra chợ bán. Hồi ấy, má đi chợ bằng xuồng chèo be mười, bắt mối cùng bác Ba gái sui để đi chung. Ðâu cỡ hai, ba giờ khuya là xuống đồ để chèo ra chợ. Từ kênh Dân Quân, kéo xuồng qua đập ngã ba Xóm Ruộng, chèo qua Cây Trâm, Cây Gừa, Rạch Sao, tới nơi cũng gần 2 tiếng đồng hồ.

Má tôi kể, ngán nhất là lúc chèo qua đập Cây Gừa, thường bị ma nhát. Trên bờ đất chọi xuống ùm ùm, trên đọt cây một cục lửa chà bá thí xuống té sáng nước. Ðể đỡ sợ, má tôi với bác Ba nghêu ngao hát. Sau này, tôi lớn lên một chút, đi học ngang qua khúc đó, để ý thấy một chòm mả đất lô nhô. Có đứa bạn nhà gần đó kể, nhị tỳ này chôn mấy ông bán cà rem ở xứ xa vô, bệnh chết không có ai lo lắng. Người ta thương tình cho hòm quách rồi đắp mả đất. Giờ nghĩ lại, mới thấy thương những con người tha hương cầu thực, mưu sinh vất vả đã đành và khi nằm xuống cũng không được thấy quê hương.

Sau này, khi cuộc sống đã ổn định hơn, má tôi cũng không còn “chạy chợ”, nhưng vẫn hay nhắc nhớ lại chuyện ân tình của những người bạn cùng bán năm xưa. Ai cũng nghèo, nên đùm bọc nhau, bênh vực nhau. Nói là đi chợ, nhưng những người như má tôi nào có biết đâu là hàng quán ăn uống. Bữa nào sang lắm thì ổ bánh mì không, còn thường là nhịn đói, nhịn khát để xong buổi chợ về nhà ăn cơm. Nhưng mỗi lần má đi chợ về, tụi tui mừng rơn. Kiểu gì má cũng mua cho cái bánh cam, bánh còng, bánh mì mỡ (hồi đó sao người ta bán kỳ cục, không phải bánh mì thịt như giờ)... cảm giác ăn xong còn ngon tận đến bây giờ.

Gió chướng khẩy ngọn, mùa chợ lạnh teo. Dáng má chèo quằn nhịp mái mà xuồng dựng ngược không đi, gió lạnh thấm luồn trong da thịt. Chợ sớm mịt mờ, những bạn chợ túm tụm nhau đem… rượu đế ra uống cho ấm lòng. Có người tính: “Bán vài bữa nữa gom mua cho sắp nhỏ mỗi đứa một bộ quần áo mới...”. Có người trầm lặng thở dài: “Hổm rày đồ đạc hiếm quá, kiểu này Tết tới mà rầu thúi ruột...”. Ðưa ông bà, 25 Tết năm đó, má tôi vẫn “chạy chợ”, chiếc xuồng nhẹ hửng chèo đi. Bữa đó, má về trễ hơn. Chiếc xuồng lỉnh kỉnh bao nhiêu đồ đạc, chúng tôi mừng như Tết. Nào là mỡ heo, cải tùa sại, hành bó... Sau này má thú thiệt, cải tùa sại là do người ta nghỉ bán, đổ đống để chạy ghe về quê ăn Tết, má ngồi mót lại cái nào xài được thì gom về. Mỡ heo, hành bó là những thứ rẻ nhất, nhiều nhất ở chợ Tết nên người ta vừa bán, vừa cho...

Má tôi bị chứng bệnh xương khớp khi chưa tròn 50 tuổi, phải mổ, có thời gian má ngồi xe lăn. Cõng 6 đứa con đâu có nhẹ, bệnh má tôi từ đó mà ra. Vậy mà hở ra là má nhớ nghề “chạy chợ”, nhớ bạn chợ. Tôi hay nói với má, nhớ chi cái thời khổ cực. Má rầy: “Cha mầy, không có cái nghề đó, có được tụi mày bây giờ sao mà chê trách?”. Ờ thì, tôi có chê trách gì đâu. Buột miệng nói vậy thôi, chớ thiệt tình, lúc nào tôi cũng nhớ lắm ngày xưa...

Tôi lớn lên, được đi đây đó nhiều, có cảm nhận riêng. Một trong những phát hiện của tôi là hễ tới đâu, muốn biết chỗ đó sung túc, giàu có cỡ nào thì cứ đi vào chợ. Ở chợ có hết thảy nhịp sống, sức sống và cuộc sống trong đó. Còn bây giờ, dịch giã hoành hành, chợ trong thời giãn cách không còn đông đúc, vui tươi nữa. Tôi điện thoại chọc ghẹo má: “Hồi trước, không có má thì chợ vẫn đông, còn bây giờ chợ buồn hiu à má ơi”. Lặng một khoảng, đầu dây bên kia trả lời: “Má có nghề “chạy chợ” nghe bây, có gì thì về đây với má...”./.

 

Phạm Hải Nguyên

 

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.