Thứ tư, 5-11-25 19:05:19
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

“Chạy chợ” nhớ đồng

Báo Cà Mau (CMO) Tôi sinh ra ở Xóm Ruộng, xứ Ðầm. Tình thiệt, đất đai vườn tược đã chuyển dịch sang nuôi tôm hơn 20 năm, mà lòng tôi cứ nhớ tuổi nhỏ với đồng ruộng, bưng biền. Nghĩ mà ngộ, ba má tôi làm ruộng gần như cả đời, nhưng nghề nghiệp hiện tại ghi trong lý lịch giấy trắng mực đen để chữ “làm vuông” to đùng. Nhưng cuộc đời thì vậy, thay đổi là quy luật, chỉ có nỗi nhớ là vô chừng. Như sớm nay, cầm tờ giấy đi chợ của phường cấp theo lịch 3 ngày/lần trong thời gian giãn cách xã hội chống dịch, ghé chợ mà tính đâu lộn chỗ, đi chợ mà nhớ chợ quá chừng.

Chợ nông sản thị trấn Cái Nước bố trí buôn bán giãn cách trong bối cảnh dịch giã hoành hành.

Nhà tôi đông anh em, ba má làm đủ nghề, bươn chải nuôi sắp con lưa lứa nối tiếp nhau 6 đứa. Nhớ không lầm, má tôi “chạy chợ” Ðầm Dơi cũng đâu chục năm có lẽ. Thật ra cái nguồn gốc của nghề “chạy chợ”, hay danh từ gọi “chợ chồm hổm” hay “chợ chạy” tới nay chưa có nghiên cứu khoa học nào cất công tìm hiểu. Người ta gọi riết thành quen, mà ít ai biết bên trong đó là cả một lịch sử phong phú, thú vị. Má tôi, dù gì cũng là người trong cuộc thì giải thích nôm na, ngộ nghĩnh nhưng cũng có cái lý lắm.

Má nói, chợ ở xứ mình nơi đâu cũng vậy, ngoài chỗ vựa lớn, sạp bự, thì góc cuối chợ dành cho dân “chạy chợ” từ trong quê mang đồ ruộng, vườn ra bán. Mặt hàng của bà con toàn bộ là cây nhà lá vườn trồng được hoặc khai thác đồ đồng, đồ ruộng thiên nhiên. Vậy nên để có đồ bán, người dân vừa phải trồng trọt, sản xuất, tới lứa thu hoạch, rồi mới đem ra chợ. Vất vả hơn là những người phải đi tìm kiếm, khai thác các sản vật tự nhiên từ ngoài bưng đồng. Hễ hết buổi chợ là phải rong ruổi, lặn lội khắp chốn để tìm nguồn hàng bán cho phiên chợ kế sớm mai.

Người dân Khánh Bình Ðông, huyện Trần Văn Thời thu hoạch ngò gai.

Chợ đồng chỉ bán sớm mai, điều đó thì ai cũng biết, nhưng nó có lý do cả. Thứ nhất là người bán, bán cho lẹ đặng còn về một quãng quê xa để mà lo ruộng vườn, con cái. Thứ nữa là đồ bán của mỗi người đâu có nhiều, thế nên bán xong sớm thì về. Cái nữa là đồ đồng thì cứ bày ra đó, toàn cá sống, rau tươi, đồ dễ hư, nên đứng buổi thì coi như hết giá trị. Bữa nào bán ế, người “chạy chợ” đành bấm bụng bán liều, bán đại, bán như cho, gỡ gạc được chừng nào hay chừng đó. Kẹt quá gặp người quen, biếu luôn ăn lấy thảo mà không chút băn khoăn. Ngặt cái là đồ nhà trồng thì phải có mùa, có lứa, đồ đồng thì kiếm khi trúng, khi trật. Chưa hết buổi chợ này, người ta đã lo cho chuyện ngày mai bán cái gì, thế nên suốt ngày cứ tất tả ngược xuôi, đi không kịp thì chạy. Chạy kiếm đồ bán, chạy kịp ra buổi chợ sớm, chạy để trở về nhà... Thành ra là một nghề “chạy chợ” vậy.

Còn “chợ chạy” hay chợ “chồm hổm” được giải thích ngắn gọn, dễ hiểu hơn. “Chợ chạy” là loại chợ không chính quy, né thuế má (mà đóng thuế thì lỗ nặng, còn nói làm gì), nên gặp quản lý chợ hay công chức thuế là dân bán bỏ chạy té khói. Nói là không đóng thuế phí, nhưng người bán phải đóng tiền “chỗ ngồi”, chẳng biết xếp loại này vô phí thuế chính thống nào. Chỉ biết lâu lâu có mấy chị, cô, bà cãi lộn nhau vì chỗ ngồi bán này “tao xí”, mặc dù trên thực tế, chẳng ai có chủ quyền cả. Mỗi bận như vậy, nhân viên quản lý chợ lại giải quyết rất ổn thoả, đơn giản bằng hiệu lệnh: “Giải tán hết”. Chợ “chồm hổm” thì rõ rồi, thấy cái dáng ngồi của người bán thì biết...

Vườn nhà tôi lúc trước trồng nhiều dừa, mãng cầu gai, măng tre mạnh tông, đúng mùa thì còn có xoài, ổi... Má tôi bẻ thêm bình bát chín, trái giác, róc lá chuối, nhổ bông súng, rau đồng các loại... để mang ra chợ bán. Hồi ấy, má đi chợ bằng xuồng chèo be mười, bắt mối cùng bác Ba gái sui để đi chung. Ðâu cỡ hai, ba giờ khuya là xuống đồ để chèo ra chợ. Từ kênh Dân Quân, kéo xuồng qua đập ngã ba Xóm Ruộng, chèo qua Cây Trâm, Cây Gừa, Rạch Sao, tới nơi cũng gần 2 tiếng đồng hồ.

Má tôi kể, ngán nhất là lúc chèo qua đập Cây Gừa, thường bị ma nhát. Trên bờ đất chọi xuống ùm ùm, trên đọt cây một cục lửa chà bá thí xuống té sáng nước. Ðể đỡ sợ, má tôi với bác Ba nghêu ngao hát. Sau này, tôi lớn lên một chút, đi học ngang qua khúc đó, để ý thấy một chòm mả đất lô nhô. Có đứa bạn nhà gần đó kể, nhị tỳ này chôn mấy ông bán cà rem ở xứ xa vô, bệnh chết không có ai lo lắng. Người ta thương tình cho hòm quách rồi đắp mả đất. Giờ nghĩ lại, mới thấy thương những con người tha hương cầu thực, mưu sinh vất vả đã đành và khi nằm xuống cũng không được thấy quê hương.

Sau này, khi cuộc sống đã ổn định hơn, má tôi cũng không còn “chạy chợ”, nhưng vẫn hay nhắc nhớ lại chuyện ân tình của những người bạn cùng bán năm xưa. Ai cũng nghèo, nên đùm bọc nhau, bênh vực nhau. Nói là đi chợ, nhưng những người như má tôi nào có biết đâu là hàng quán ăn uống. Bữa nào sang lắm thì ổ bánh mì không, còn thường là nhịn đói, nhịn khát để xong buổi chợ về nhà ăn cơm. Nhưng mỗi lần má đi chợ về, tụi tui mừng rơn. Kiểu gì má cũng mua cho cái bánh cam, bánh còng, bánh mì mỡ (hồi đó sao người ta bán kỳ cục, không phải bánh mì thịt như giờ)... cảm giác ăn xong còn ngon tận đến bây giờ.

Gió chướng khẩy ngọn, mùa chợ lạnh teo. Dáng má chèo quằn nhịp mái mà xuồng dựng ngược không đi, gió lạnh thấm luồn trong da thịt. Chợ sớm mịt mờ, những bạn chợ túm tụm nhau đem… rượu đế ra uống cho ấm lòng. Có người tính: “Bán vài bữa nữa gom mua cho sắp nhỏ mỗi đứa một bộ quần áo mới...”. Có người trầm lặng thở dài: “Hổm rày đồ đạc hiếm quá, kiểu này Tết tới mà rầu thúi ruột...”. Ðưa ông bà, 25 Tết năm đó, má tôi vẫn “chạy chợ”, chiếc xuồng nhẹ hửng chèo đi. Bữa đó, má về trễ hơn. Chiếc xuồng lỉnh kỉnh bao nhiêu đồ đạc, chúng tôi mừng như Tết. Nào là mỡ heo, cải tùa sại, hành bó... Sau này má thú thiệt, cải tùa sại là do người ta nghỉ bán, đổ đống để chạy ghe về quê ăn Tết, má ngồi mót lại cái nào xài được thì gom về. Mỡ heo, hành bó là những thứ rẻ nhất, nhiều nhất ở chợ Tết nên người ta vừa bán, vừa cho...

Má tôi bị chứng bệnh xương khớp khi chưa tròn 50 tuổi, phải mổ, có thời gian má ngồi xe lăn. Cõng 6 đứa con đâu có nhẹ, bệnh má tôi từ đó mà ra. Vậy mà hở ra là má nhớ nghề “chạy chợ”, nhớ bạn chợ. Tôi hay nói với má, nhớ chi cái thời khổ cực. Má rầy: “Cha mầy, không có cái nghề đó, có được tụi mày bây giờ sao mà chê trách?”. Ờ thì, tôi có chê trách gì đâu. Buột miệng nói vậy thôi, chớ thiệt tình, lúc nào tôi cũng nhớ lắm ngày xưa...

Tôi lớn lên, được đi đây đó nhiều, có cảm nhận riêng. Một trong những phát hiện của tôi là hễ tới đâu, muốn biết chỗ đó sung túc, giàu có cỡ nào thì cứ đi vào chợ. Ở chợ có hết thảy nhịp sống, sức sống và cuộc sống trong đó. Còn bây giờ, dịch giã hoành hành, chợ trong thời giãn cách không còn đông đúc, vui tươi nữa. Tôi điện thoại chọc ghẹo má: “Hồi trước, không có má thì chợ vẫn đông, còn bây giờ chợ buồn hiu à má ơi”. Lặng một khoảng, đầu dây bên kia trả lời: “Má có nghề “chạy chợ” nghe bây, có gì thì về đây với má...”./.

 

Phạm Hải Nguyên

 

SỨC MẠNH GẮN KẾT TÌNH QUÂN - DÂN

Công tác dân vận luôn được xác định là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, thường xuyên, là “cầu nối” bền chặt giữa lực lượng vũ trang với Nhân dân. Thấm nhuần quan điểm của Đảng về công tác dân vận trong tình hình mới, Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển (CSB) 4 và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tỉnh Cà Mau đã triển khai hiệu quả phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt” giai đoạn 2021-2025, góp phần củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh Nhân dân vững chắc từ sớm, từ xa trên vùng biển Tây Nam Tổ quốc.

Nét đẹp làng nghề xứ biển

Hình thành từ đời sống lao động sản xuất và bản sắc văn hoá của người dân bản địa, nhiều làng nghề ở các xã ven biển Cà Mau được lưu giữ, duy trì sức sống hơn 100 năm qua. Với bà con xứ biển, các nghề truyền thống không chỉ là sinh kế, mà còn là niềm tự hào, từ đó thêm gắn bó, nỗ lực giữ gìn.

Ngành giáo dục tiên phong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng

Trong bối cảnh hiện nay, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách mà đã trở thành trách nhiệm chung của toàn xã hội. Đặc biệt, đối với ngành giáo dục, đây được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, đòi hỏi mỗi thầy cô giáo, mỗi học sinh, sinh viên trở thành những “chiến sĩ” tiên phong trên mặt trận tư tưởng.

Bà Phạm Thị Mỹ Não: Từ bi phải có trí tuệ

Trong nhịp sống hôm nay, guồng quay cơm áo nhiều khi khiến người ta trở nên vội vã thì những câu chuyện về sự sẻ chia lại càng có giá trị gấp bội. Ở tuổi 66, bà Phạm Thị Mỹ Não (phường Tân Thành) vẫn bền bỉ gieo hạt lành, kết nối những tấm lòng thiện nguyện để dựng xây cầu nông thôn, cất mái nhà cho bà con nghèo an cư lạc nghiệp.

Xẻo Đước anh hùng

Những người dân cố cựu ấp Xẻo Đước, trong đó có những người trực tiếp tham gia công tác tại các cơ quan của Tỉnh uỷ Cà Mau khi nhắc nhớ Khu Căn cứ Tỉnh uỷ Xẻo Đước (ấp Xẻo Đước, xã Phú Mỹ) là giọng nói sôi nổi, đôi mắt sáng rực, lòng trào dâng sự tự hào khôn tả.

Mùa vú sữa trên miền quê mới

Tháng 8, khi từng cơn gió từ biển Tây lướt qua rặng đước, rừng tràm bạt ngàn xanh thẫm, cũng là lúc lòng người dân Cà Mau lại trào dâng xúc động, thành kính nhớ về Bác Hồ. Hơn 55 năm kể từ ngày Người để lại bản Di chúc thiêng liêng, mỗi câu chữ vẫn còn vẹn nguyên giá trị, soi sáng hành trình cách mạng, nâng đỡ ý chí và tinh thần Nhân dân trên từng nẻo quê hương cực Nam của Tổ quốc.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài cuối: Hành động để đổi mới, vươn xa 

Nghị quyết 68 đã xác định những mục tiêu chiến lược, nhưng mục tiêu ấy không thể biến thành hiện thực nếu khâu tổ chức thực hiện thiếu sự tập trung, quyết liệt. Để nghị quyết thực sự đi vào đời sống xã hội một cách thực chất, trở thành nền tảng, động lực và khơi dậy khát vọng, thành tựu phát triển của khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) trong kỷ nguyên vươn mình, cần lộ trình hành động rõ ràng và quyết tâm cao độ. 

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài 3: Cơ hội vàng để kinh tế tư nhân cất cánh

Những nội dung mang tính đột phá của Nghị quyết 68 được kỳ vọng sẽ tạo cú huých lớn cho kinh tế tư nhân (KTTN) phát triển mạnh mẽ. Sự đồng hành, hỗ trợ và kiến tạo của Nhà nước sẽ là "chất xúc tác" để khu vực KTTN phát huy tối đa tiềm năng, bứt phá, đóng góp to lớn hơn vào sự thịnh vượng và phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài 2: "Đêm trước" Nghị quyết 68

Trước khi Nghị quyết 68 ra đời, trên địa bàn tỉnh Cà Mau, hộ kinh doanh cá thể (KDCT), doanh nghiệp (DN) nhỏ/siêu nhỏ cùng lúc đứng trước 2 vấn đề tưởng chừng mâu thuẫn với nhau, đó là "chưa thể lớn" và "chưa chịu lớn", thế nhưng chúng lại liên quan chặt chẽ nhau, phản ánh thực tại bức tranh cộng đồng DN nhỏ/siêu nhỏ và các hộ KDCT của tỉnh.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng"

Trong giai đoạn “sắp xếp lại giang sơn”, Nghị quyết 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 (Nghị quyết 68) về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) được Bộ Chính trị ban hành. Với tinh thần xoá bỏ định kiến, tạo điều kiện đột phá, Nghị quyết 68 là sự khẳng định mạnh mẽ của Đảng về vai trò then chốt, động lực quan trọng hàng đầu của khu vực KTTN trong tiến trình phát triển đất nước. Ví như câu chuyện về Thánh Gióng trong truyền thuyết xưa, Nghị quyết 68 đã cung cấp đầy đủ điều kiện chín muồi để KTTN đủ sức chuyển hoá thành những thành tựu phát triển rực rỡ, kỳ diệu của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình.