ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 31-5-25 00:56:20
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

“Chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú - Dấu xưa một thời

Báo Cà Mau Trong hành trình tìm về quá khứ, có những việc tuy ngoài sách sử, nhưng lại đậm sâu trong ký ức nhiều người. Ðó cũng là câu chuyện về “chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú, nay thuộc ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước.

Khi kể về ông ngoại mình, là cụ Lê Khắc Xương, cán bộ tiền khởi nghĩa, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu (nay là Cà Mau, Bạc Liêu), Kiến trúc sư Mai Lê Minh có nhắc đến tên “chùa Cộng sản” nghe là lạ, khiến tôi tò mò.

Nhưng ông Minh phân trần, chỉ nghe mẹ ông và mấy người lớn tuổi trong dòng họ bảo, đó là nơi ông ngoại mình từng tổ chức họp hội bí mật, còn chi tiết thế nào ông không rõ. Những người lớn tuổi biết chuyện giờ hầu hết đã về với tổ tiên...

“Ngôi chùa” không tiếng mõ...

May mắn thay, tại đám giỗ một người trong dòng họ, ông Minh giới thiệu chúng tôi gặp Nhạc sĩ Lê Lương (người gọi cụ Lê Khắc Xương bằng ông chú ruột), là người ít nhiều biết được thông tin về những hoạt động của cụ gắn với “ngôi chùa” này.

Nhạc sĩ Lê Lương tuổi đã gần 90, nhưng còn rất minh mẫn. Theo lời kể của ông, “chùa Cộng sản” thực chất là ngôi thờ tự mà cụ Lê Văn Hiền (thân phụ của Lê Khắc Xương) dựng nên để tu tại gia vào những năm cuối đời, toạ lạc bên bờ kênh Rạch Rập, cạnh con rạch Nàng Âm (thuộc ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước ngày nay).

Cụ Hiền là người có ý chí, cần mẫn khai phá đất đai, tạo lập được cuộc sống khá giả, nuôi dạy 8 người con. Cụ sống giản dị, chân tình, luôn quan tâm, sẻ chia cùng bà con, làng xóm. Nhưng cụ cũng là người khá bảo thủ, từng cấm các con học chữ quốc ngữ vì sợ làm tay sai cho Tây, đồng thời cũng nghiêm cấm con cái làm “quốc sự”.

Cụ Lê Văn Hiền, thân sinh cụ Lê Khắc Xương, người lập “chùa Cộng sản”. (Ảnh gia đình cung cấp)

Cụ Lê Văn Hiền, thân sinh cụ Lê Khắc Xương, người lập “chùa Cộng sản”. (Ảnh gia đình cung cấp)

Thế nhưng, con út cụ là Lê Khắc Xương (sinh năm 1904) lại là một người có ý chí mạnh mẽ. Từ nhỏ, Lê Khắc Xương đã bộc lộ khí chất quyết liệt, vượt khỏi khuôn phép gia đình, sau này thì dấn thân vào con đường cách mạng.

Thuở thiếu thời, vốn không thích học chữ nho nhưng thông minh nên Lê Khắc Xương lĩnh hội rất nhanh những điều thầy dạy. Cậu bé phải kiên trì nài xin hơn một năm mới được cha cho vào học trường làng. Nhưng không may, đến giữa năm lớp 2, cụ Hiền phát hiện thầy giáo có dạy chữ “Tây” cho con mình, thế là Lê Khắc Xương bị bắt về tập làm những công việc của nhà nông, không được bén mảng đến trường thêm ngày nào nữa.

Năm 18 tuổi, vì không muốn kết hôn với người xa lạ do cha mẹ sắp đặt, Lê Khắc Xương đã rời quê nhà lên Cần Thơ và làm thuê cho một cơ sở tranh sơn mài. Thời gian này, ông tranh thủ tự học thêm chữ quốc ngữ, dành nhiều thời gian đọc sách báo, giao du với những người có học thức, quan sát thời cuộc và bắt đầu con đường hoạt động cách mạng.

Chân dung cụ Lê Khắc Xương. (Ảnh gia đình cung cấp)

Chân dung cụ Lê Khắc Xương. (Ảnh gia đình cung cấp)

Ðến năm 1930, ông trở về làng Thạnh Phú, tích cực truyền bá tư tưởng độc lập, vạch rõ con đường giải phóng dân tộc, đấu tranh chống áp bức, bất công... đồng thời giới thiệu những tấm gương yêu nước tiêu biểu đến người thân, bạn bè và đặc biệt là thế hệ con cháu trong dòng tộc.

Bấy giờ ông đã lập gia đình với người mình chọn. Vì vi phạm vào điều cấm kỵ của cha, Lê Khắc Xương bị truất quyền thừa tự nên cuộc sống khá vất vả. Dẫu vậy, ông vẫn kiên định với lý tưởng đã theo đuổi và luôn nhận được sự đồng hành, sẻ chia từ người vợ.

Năm 1935, cụ Lê Văn Hiền mất, cụ bà Nguyễn Thị Biên lập vi bằng giao quyền thừa tự lại cho Lê Khắc Xương. Bấy giờ, ông đã dùng chính ngôi nhà từ đường của gia đình tại rạch Bà Ðiều, xã Thạnh Phú (nay thuộc ấp Xóm Lớn, xã Lý Văn Lâm, TP Cà Mau) làm địa điểm tổ chức hội họp và liên lạc với các nơi. Giữa năm 1936, để đảm bảo bí mật, ông đã sử dụng ngôi thờ tự của cụ Hiền làm nơi hội họp và che mắt địch bằng cách bố trí các đám giỗ của những người trong họ tộc.

Nơi này, từng đón tiếp các đồng chí: Nhật Quang (cán bộ Xứ uỷ), Tào Văn Tỵ, Nguyễn Văn Tạo, Phan Ngọc Hiển, Văn Trung Thành, Bùi Thị Trường... những cán bộ tiền khởi nghĩa, từng làm nên một thời cách mạng sục sôi ở vùng đất Nam Bộ - Cà Mau.

Người dân trong vùng lúc đầu không biết, ban đêm đi ngang nơi này thấy có ánh đèn lập loè, có tiếng thì thào... họ đồn đại ở đó có ma, là "binh” của ông cụ. Về sau, khi biết đây là nơi tụ họp của những người cách mạng, họ gọi ngôi thờ tự này là “chùa Cộng sản”.

Bà Nguyễn Thị Cẩn, vợ cụ Xương, cũng đóng vai trò hậu cần, lo liệu cho chồng và các đồng chí ông. Theo chỉ đạo của tổ chức, Lê Khắc Xương và vợ còn thành lập một cơ sở sản xuất gây quỹ tự túc cho tổ chức và đoàn thể hoạt động.

Ðến năm 1939, khi Lê Khắc Xương và nhiều đồng chí ông bị bắt, bị lưu đày ở Bạc Liêu, Sài Gòn, Côn Ðảo, Bà Rá... thì “chùa Cộng sản” cũng không còn hoạt động.

Tự hào truyền thống gia tộc

Giữa đầu năm 1945, hay tin Nhật đảo chính Pháp, Lê Khắc Xương vượt ngục trở về tiếp tục khôi phục cơ sở cách mạng. Tháng 7/1945, Tỉnh uỷ lâm thời khu vực Bạc Liêu thành lập, ông được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông giữ nhiều chức vụ: Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu (chính thức), Phó chủ tịch rồi Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Bạc Liêu, Phó giám đốc Sở Ngân khố Nam Bộ...

Năm 1954, khi diễn ra sự kiện tập kết, ông làm Trưởng ban Tập kết của tỉnh, sau đó xuống tàu đi tập kết theo sự sắp xếp của cấp trên. Ngày thống nhất đất nước, tuổi cao, ông nghỉ hưu và về quê sống thanh đạm cho đến khi mất, năm 1978. Theo nguyện vọng, ông được an táng tại khu mộ gia tộc, bên cạnh song thân ở quê nhà (ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước).

Kiến trúc sư Mai Lê Minh chia sẻ, suốt cuộc đời, ông ngoại mình luôn sống giản dị, hy sinh cả lợi ích cá nhân cho lý tưởng cách mạng. Dù có giai đoạn bị hàm oan, bị quên lãng, nhưng cuối cùng, thời gian và lịch sử đã trả lại cho ông sự trong sạch và niềm tự hào.

Nhạc sĩ Lê Lương xúc động kể, cụ Lê Khắc Xương là người đầu đàn trong dòng họ đi theo cách mạng, truyền cảm hứng cho biết bao con cháu tiếp bước. Từ đó, dòng họ Lê có nhiều người hoạt động cách mạng, không ít người đã hy sinh. Sau này, rất nhiều con cháu học hành thành đạt và có những đóng góp nhất định cho đất nước. Có một số giữ chức vụ cao về mặt chính quyền, quân đội... Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau hiện nay, ông Lê Văn Sử, cũng là con cháu trong dòng họ.

Nhạc sĩ Lê Lương (người thứ tư từ trái sang) cùng con cháu trong họ tộc trong một lần họp mặt.

Nhạc sĩ Lê Lương (người thứ tư từ trái sang) cùng con cháu trong họ tộc trong một lần họp mặt.

Cũng theo Nhạc sĩ Lê Lương, sau năm 1945, khi đảm nhiệm chức Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Bạc Liêu, ông Lê Khắc Xương đã chủ trương thành lập Trại Nhi đồng - Trường Thiếu nhi, Thiếu sinh quân Huỳnh Phan Hộ (tại ấp Tân Hoà, xã Tân Thuận, huyện Ðầm Dơi ngày nay) để tập hợp con cháu của liệt sĩ, cán bộ đào tạo nguồn cho tương lai. Về sau trường dời sang bên kia sông Bảy Háp phát triển thành Trường Trần Quốc Toản của Nam Bộ. Ngôi trường này đào tạo rất nhiều con em cán bộ, chiến sĩ cách mạng miền Nam. Năm 1954, nhiều học sinh của trường được đưa ra Bắc học tập, rất nhiều người thành đạt ở tất cả các lĩnh vực. Phó giáo sư, Nhạc sĩ Ca Lê Thuần và hai người em Ca Lê Hiến (Lê Anh Xuân), Ca Lê Hồng thuở nhỏ cũng học ở trường này. Ông Lê Lương cũng là học sinh của trường và được thầy dạy nhạc là Huỳnh Tử Cao (Nhạc sĩ Thanh Trần, đã hy sinh) dạy nhạc. Ðó cũng là nền tảng để sau này ông theo con đường âm nhạc và có nhiều sáng tác phục vụ kháng chiến.

Thêm một điều khiến dòng họ này rất tự hào, họ chính là hậu duệ của Tả quân Lê Văn Duyệt - một danh tướng triều Nguyễn và cụ Lê Khắc Xương chính là cháu đời thứ 5. Truyền thống ấy, như một dòng chảy thiêng liêng, khiến mỗi người con trong họ tộc phải nhắc mình sống cho xứng đáng.

Một ngày đến thăm nơi “chùa” xưa, lặng nhìn những tảng đá rêu phong còn sót lại, chợt nghe như trong gió tiếng thì thầm của một thế hệ đã qua. Và tôi chợt ước mong, câu chuyện này một ngày nào đó sẽ được nhắc lại bằng bia đá, để đời sau không quên rằng: Nơi đây từng hiện diện “ngôi chùa”, có một thời không tiếng gõ mõ, tụng kinh, mà chỉ vang lên lời thề vì đất nước./.

 

Trang Thăm

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.