ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 22-11-24 02:05:59
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

“Nhắn ai luôn giữ câu nguyền…”

Báo Cà Mau Tôi muốn mượn lời bài hát “Câu hò bên bờ Hiền Lương” của Nhạc sĩ Hoàng Hiệp (Đằng Giao cùng viết lời) để kể câu chuyện về những người phụ nữ trong hoàn cảnh đất nước chia cắt sau Hiệp định Giơnevơ mà phận đời của họ gắn liền sự kiện tập kết năm 1954, với sự hy sinh âm thầm và tấm lòng sắt son, chung thuỷ.

“Mái đầu xanh thề mãi đến khi già”(*)

Ông Nguyễn Thành Ða, Khóm 6, phường Tân Thành, TP Cà Mau, mở đầu câu chuyện: “Cả đời tôi không biết kêu tiếng “ba”. Ba ruột đi tập kết khi mình chưa tròn tuổi...; ba vợ thì cũng hy sinh năm 1965”.

Sau phút lắng lòng, ông mang ra cho chúng tôi một bọc nhỏ, trong đó có nhiều mảnh giấy ố vàng, một số mảnh chữ viết vẫn còn khá rõ và đẹp, có cả những mảnh ghi tiếng Pháp và chữ Hán, rồi bảo: “Ngoài những giấy tờ này, ông cụ còn có quyển nhật ký nhỏ, khá dày, ghi đầy đủ quá trình đi ra Bắc, rồi những công việc làm ở miền Bắc, nhưng tiếc là bão số 5 đã làm hư hại...”.

Ông Nguyễn Thành Ða (thứ hai, từ trái sang) rất mừng vì vẫn còn biết mặt ba mình qua hình ảnh.

Ông Nguyễn Thành Ða (thứ hai, từ trái sang) rất mừng vì vẫn còn biết mặt ba mình qua hình ảnh.

Chúng tôi thật cảm động khi nghe ông kể câu chuyện về hai đấng sinh thành.

Ba ông Ða quê Bắc Giang, vào Cà Mau trong đoàn quân Nam tiến, thời kháng chiến chống Pháp. Ở Cà Mau, ba ông đảm nhận công việc dạy học cho cán bộ. Có lúc trường học cất ở gần nhà mẹ ông (ấp Cái Ngay, xã Thanh Tùng, huyện Ðầm Dơi, ngày nay), vậy là ông bà quen biết rồi phải lòng nhau và tiến đến hôn nhân.

Năm 1954, ba ông từ giã gia đình đi tập kết, hẹn 2 năm quay về. Khi ấy, con trai đầu lòng là anh ông Ða 3 tuổi, còn ông Ða mới sinh được 3 tháng. Mẹ ông ở nhà công tác phụ nữ, vừa tần tảo nuôi con, vừa đếm từng ngày từng tháng chồng sẽ trở về.

Chính quyền Mỹ - Diệm không thực hiện Hiệp định Giơnevơ, gây bao đau thương, tang tóc cho miền Nam, 2 năm thành 21 năm dài đằng đẵng... Bao nhiêu người không còn hy vọng sum vầy, hoàn cảnh đẩy đưa, không ít người ra đi và người ở lại tìm cho mình bến đỗ mới... Dẫu vậy, mẹ ông vẫn một mực đợi chờ chồng, dù ngần ấy năm trời không nhận được một bức thư.

“Thi hành Luật 10/59, đêm nào bọn chúng cũng bao vây nhà vì chỉ thấy đàn bà, trẻ con (chúng nghi ngờ đàn ông đi làm cách mạng). Cuối cùng mẹ con tôi phải dọn về ở bên nhà ngoại. Nhà ngoại có dì Hai chết hồi còn nhỏ, mộ chôn ngoài sau, cả nhà nói mộ đó là chồng của mẹ, bọn chúng mới để yên”, ông Ða kể.

Ông Ða còn nhớ, thời đó rất khổ, mẹ ông vừa công tác, vừa phải vất vả làm đủ thứ nghề, kể cả làm mướn, lặn lội đi nhổ bồn bồn làm dưa bán... để kiếm tiền nuôi con. Trong hoàn cảnh ấy, không ít người có thành ý muốn sẻ chia, nhưng bà một mực khước từ.

Rồi cũng đến ngày nước nhà thống nhất. Hoà trong niềm vui chung ấy, bà và các con hân hoan chờ đón ông về. Nhưng chờ mãi mà “bóng chim tăm cá”.

Gần cuối năm 1975, không còn hy vọng, bà xin giấy phép đi đường ra miền Bắc tìm ông. Tuy nhiên, bấy giờ tuyến đường Bắc - Nam đang sửa chữa nên chuyến đi bị hoãn. Qua năm 1976, bà nhận tin sét đánh từ tờ giấy báo tử có tên ông được gửi về. Mọi hy vọng, trông chờ hoàn toàn sụp đổ.

Ngay sau đó, ông Ða (bấy giờ là thầy giáo Trường Ninh Bình) đã lặn lội ra miền Bắc để tìm hiểu nguồn cơn. Ra đó, ông nhận được vali quần áo, giấy tờ ba ông để lại, cùng với các thông tin: Ba ông khi tập kết ra Bắc, làm ở Thư viện Ðại học Bách khoa Hà Nội, sau về Ban Tuyên giáo Trung ương, rồi qua Uỷ ban Văn hoá Ðối ngoại. Tại đây, ông được phân công đi làm đại sứ nước ngoài. Trước khi đi, bác sĩ kiểm tra sức khoẻ và phát hiện ông bệnh tim nặng. Giáo sư Tôn Thất Tùng mổ tim cho ông, ca mổ hoàn thành, nhưng sau đó thì ông không qua khỏi. Ông mất ngày 16/10/1965.

Trong chuyến đi này, ông Ða cũng tìm về quê nội Bắc Giang. Hai bên gặp nhau mừng mừng tủi tủi và ông cũng hiểu thêm về ba mình. “Nội tôi có 7 người con, 6 gái, chỉ duy nhất mình ba tôi là trai. Thấy tình hình chiến tranh không biết khi nào mới kết thúc, những lần ông về thăm nhà, gia đình khuyên ông cưới vợ khác để có con nối dõi tông đường, nhưng ông một mực không nghe. Ông bảo, chờ ngày thống nhất, về Nam sum họp với mẹ con tôi”, ông Ða xúc động kể.

Chân dung bà Phan Kim Ngôn.   (Ảnh gia đình cung cấp)

Năm 2004, thể theo nguyện vọng của mẹ ông “sống chia cắt, chết muốn được gần nhau”, ông Ða đã đưa mẹ cùng ra Bắc bốc hài cốt cha mình mang về quê nhà chôn cất.

Nói thêm về những giấy tờ ba ông để lại, thật nao lòng khi trong đó còn có một bức thư ba ông viết mà chưa kịp gửi mẹ ông. Thư ghi ngày 23/12/1964. Phần đầu thư, ba ông hỏi thăm ông bà nội ngoại, cha mẹ vợ, những anh chị em trong gia đình, tất cả bà con họ hàng từng người một; nhắn vợ đền ơn đáp nghĩa những người đã cưu mang, giúp đỡ gia đình, con cái mình; dặn vợ chăm lo cho con. Ông cũng cho biết, đã gửi cho bà 10 lá thư, chẳng biết có tới không mà không nhận được một dòng hồi đáp. Phần cuối là những tâm tình cùng bà. Xin mạn phép trích nguyên nội dung này: “Em Ba ơi! Chín năm trước đây, mỗi khi nghe tin giặc khủng bố quê ta, anh thương xót đồng bào, đồng thời lo cho em và hai con. Nỗi lo vợ trẻ lọt vào nanh lang sói, anh gởi vào trong bài thơ “Khi về hỏi liễu Chương Ðài”. Ðầu năm nay, cháu Nguyệt (con của hai bác Thái Ðức Hoà) cho hay rằng năm 1959 “cô Ngôn và hai em Cộng, Ða còn sống; hai em rất ngoan và cô Ngôn tham gia cách mạng...”, anh vui mừng, làm hai bài thơ “Tấm khăn thêu” và “Bay theo gió Bắc” tặng em và hai con. Chẳng biết thơ đến nơi chưa?

Anh đau tim nặng, sắp được mổ tim. Sau này nếu em thấy chúng ta không thể gặp nhau được nữa, thì em nên ưng chồng khác, cho khỏi phí xuân xanh. Nhớ chọn người thật lòng thương hai con Ða, Cộng.

Mười xuân cách biệt đôi phương/Tơ lòng Nam Bắc vấn vương muôn trùng...

Chồng yêu quý của em. Nguyễn Văn Chiểu”.

Vậy là không uổng công bà đợi chờ và không phụ lòng ông đặt trọn niềm tin vào “nơi miền xa xôi ấy...”.

Bà Phan Kim Ngôn sinh năm 1932, khi nhận thư chồng, bà 44 tuổi. Trước đã vẹn tình, giờ dù ông có khuyên đi bước nữa bà cũng không màng. Còn ông Nguyễn Văn Chiểu sinh năm 1921, khi mất cũng ở tuổi 44. Xa cách 11 năm, nhưng ông vẫn chung thuỷ với người vợ muôn trùng cách trở không tin tức ở quê nhà.

Năm 2016, bà qua đời. Vậy là ông bà đã mãi nằm cạnh nhau, không có gì chia cắt được.

“Hai ta như sen mùa hạ, cúc mùa thu..."

Nhà thơ Tế Hanh có bài “Vườn xưa” thật xúc động, nói về việc chia cách lứa đôi bởi “ở hai đầu công tác”; cứ người này về, thì người kia lại đi, họ không được gần nhau. Tôi muốn mượn lời thơ kể về một mối tình “như mặt trăng, mặt trời cách trở” dưới đây.

Chân dung bà Huỳnh Thuỵ Nhã. (Ảnh gia đình cung cấp)

Ông Lý Hoàng Lang và bà Huỳnh Thuỵ Nhã (quê xã Phú Thuận, huyện Phú Tân ngày nay), cùng tham gia công tác ở địa phương sau Cách mạng Tháng Tám, quen nhau và thành hôn.

Năm 1952, ông là bộ đội, theo lệnh trên, ông chia tay người vợ trẻ và đứa con thơ chưa đầy tuổi, hành quân lên núi rừng Tây Bắc tham gia Chiến dịch Ðiện Biên Phủ. Sau chiến thắng, ông cùng các đoàn quân tiến về giải phóng Thủ đô Hà Nội rồi công tác nơi này.

Năm 1954, bà Nhã có tên trong danh sách đi tập kết, bấy giờ bà công tác phụ nữ huyện. Dắt theo con trai 3 tuổi, lòng bà vừa luyến lưu, bịn rịn vì phải xa người thân, quê nhà, nhưng cũng chen lẫn nỗi mừng vui sẽ được cùng chồng tái hợp.

“Tuy tiếng cùng ở miền Bắc, nhưng ông bà có được gặp nhau bao nhiêu, vì ba tôi là bộ đội, rất ít ở nhà. Sau đó ông lại đi học bên Trung Quốc, về thì công tác hải quân, tham gia chiến đấu bảo vệ đảo Cồn Cỏ. Nghe nói trận đó hy sinh nhiều lắm, ba tôi còn sống là điều may...”, ông Lý Hoàng Trung, Phường 8, TP Cà Mau, phân trần.

Chiến tranh ngày càng ác liệt, miền Nam chìm trong lửa đạn, tiếng gọi quê nhà thúc giục, năm 1963, một lần nữa “Khi Tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau” (thơ Nguyễn Mỹ), ông để lại con dại, vợ hiền nơi xứ lạ quê người, vượt núi, băng rừng trở về Nam chiến đấu.

Bấy giờ ông Trung mới 3 tuổi, anh đầu 12, chị kế được 5. “Mẹ tôi công tác ở Thanh Hoá, từ phụ nữ xã rồi lên huyện, sau làm Liên hiệp Công đoàn tỉnh... Thời kỳ đó miền Bắc vô cùng khó khăn, thử tưởng tượng người phụ nữ một nách ba con ở xứ người, không bà con dòng họ, ở nhờ nhà dân hết nơi này đến nơi khác, môi trường làm việc, phong tục tập quán cũng khác..., phải vừa lo cho con, vừa công tác, phải đối nhân xử thế cho phải phép... thì biết vất vả đến thế nào. Chưa kể, có những lúc bị đàn ông ve vãn, chọc ghẹo, thấy buồn tủi trong lòng mà phải mạnh mẽ, kiên cường...”, ông Trung thấu cảm.

Trong ký ức chắp vá thời tuổi thơ, ông Trung kể lại rất nhiều những thiệt thòi, hờn tủi của anh em mình nơi quê người xứ lạ; từng hình ảnh, sự việc đầy gian khổ, khó khăn mà mẹ mình phải trải. Và nỗi ám ảnh lớn nhất với ông là những năm miền Bắc bị đánh phá ác liệt, mẹ ông phải trực canh. “Nhà máy, xí nghiệp cũng là mục tiêu chúng nhắm vào. Mẹ tôi phải đi trực bảo vệ những nơi này. Có lúc phải gửi con sơ tán hơn 10 cây số, mẹ đi về phía cầu Hàm Rồng, ban đêm đạn lửa đỏ trời... lòng những đứa con luôn phập phồng lo sợ. Có những lúc, khi đi mẹ dặn ông anh, chìa khoá mẹ để chỗ này, tiền chỗ kia, con mở cái đó, thì sẽ lấy được cái đó..., nếu lỡ mẹ không về”, ông Trung bùi ngùi.

“Có ai thấu hiểu nỗi niềm người phụ nữ, con 3 đứa, chồng đi B, mấy năm trời mới được một lá thư, có khi cũng chẳng một dòng tin tức. Nỗi lo cho chồng, lo mình chết bỏ lại con bơ vơ, rồi còn bao nhiêu lo toan, khó khăn khác phải đối mặt... Vậy mà công tác vẫn tốt, con cái chu toàn, không điều tiếng gì, vẫn một lòng chung thuỷ... Càng nghĩ, tôi càng khâm phục mẹ mình!”, ông Trung tự hào.

Cái may mắn là, cha mẹ ông Trung dù nghìn trùng xa cách rồi cũng kết thúc có hậu khi đất nước thanh bình.

Số phận của người phụ nữ luôn gắn liền với vận mệnh đất nước. Trong thời buổi chiến tranh, phận đời người phụ nữ càng nhiều éo le ngang trái. Và ở đó, phẩm chất của họ càng được sáng ngời. Mà nói như ông Trung: “Trải qua hai cuộc kháng chiến, ngoài những tượng đài được dựng lên để ghi tạc những tấm gương kiên cường bất khuất, những mất mát đau thương, như mẹ Thứ, mẹ Suốt..., với tôi, để đi tới vinh quang, còn có một tượng đài vô hình, đó là sự hy sinh thầm lặng của người phụ nữ”.

(*) Thơ Chính Hữu

 

Huyền Anh

 

Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thị Mai viếng Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh

Sáng nay (16/11), Đoàn công tác Ban Tuyên giáo Trung ương do Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thị Mai làm trưởng đoàn đến viếng, dâng hương tại Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh (Khóm 1, Phường 1, TP Cà Mau) và Khu di tích lịch sử cấp tỉnh Bia kỷ niệm Bác Hồ với cây vú sữa miền Nam, tại Ấp 10, xã Trí Phải, huyện Thới Bình.

Tổng duyệt chương trình cầu truyền hình kỷ niệm 70 năm sự kiện tập kết ra Bắc

Để chuẩn bị sẵn sàng cho sự kiện trọng đại lễ kỹ niệm 70 năm chuyến tàu tập kết ra Bắc (1954-2024), tối 15/11, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Nguyễn Tiến Hải; Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Phạm Thành Ngại; Phó chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Minh Luân đến dự buổi tổng duyệt chương trình cầu truyền hình kỷ niệm 70 năm sự kiện tập kết ra Bắc (1954-2024) và rà soát công tác tổ chức lễ.

“200 ngày tập kết ra Bắc ở Cà Mau - Tầm nhìn chiến lược và giá trị lịch sử” 

Nhằm đánh giá toàn diện về vai trò, ý nghĩa lịch sử và tầm nhìn chiến lược của Đảng, Bác Hồ trong sự kiện tập kết năm 1954, chiều 15/11, tỉnh Cà Mau tổ chức Hội thảo khoa học "200 ngày tập kết ra Bắc ở Cà Mau - tầm nhìn chiến lược và giá trị lịch sử". Đây là một trong những hoạt động ý nghĩa nằm trong chuỗi hoạt động của sự kiện 70 năm tập kết ra Bắc.

Bến tập kết năm xưa

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 20/7/1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ quy định, cùng với Khu tập kết 80 ngày ở Hàm Tân (Bình Thuận) và Xuyên Mộc (Bà Rịa - Vũng Tàu), Khu tập kết 100 ngày ở Cao Lãnh (Ðồng Tháp), thì Khu tập kết 200 ngày ở Cà Mau. Cửa biển Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời là bến tập kết để đưa cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong, học sinh ở miền Nam ra Bắc để lao động, học tập, tạo nguồn cán bộ phục vụ cách mạng miền Nam.

Xúc cảm vẹn nguyên

Từ những ngày đầu tháng 11, cao điểm các hoạt động Kỷ niệm 70 năm Sự kiện tập kết ra Bắc (1954-2024) được diễn ra khắp nơi trong tỉnh Cà Mau. Ðối với những người trong cuộc - chứng nhân của dấu mốc lịch sử ấy lại ùa về bao cảm xúc bồi hồi, nôn nao ngày họp mặt để sống lại hồi ức cách nay 70 năm, ngày lên tàu rời quê hương với niềm tin mãnh liệt vào con đường cách mạng mà Ðảng và Bác Hồ đã chọn.

Từ Sông Ðốc các anh đi

Vào khoảng cuối năm 1954, mấy chục căn nhà dọc theo sông Cái Bát (xã Tân Dân, huyện Ðầm Dơi ngày nay) đều có bộ đội đóng quân, riêng căn nhà 3 gian của tôi đủ chứa cả tiểu đội. Các anh di chuyển bằng những chiếc xuồng năm lá, từ Cần Thơ, Vĩnh Long... xuống. Chỉ ít hôm là các anh đi, về đâu tôi chẳng hề biết, chỉ để lại tình cảm quân - dân như cá với nước. Cho đến khi lớn lên, đi làm cách mạng, tôi mới biết Cà Mau là vùng tập kết 200 ngày, vậy là chắc các anh đi về Sông Ðốc để lên tàu tập kết ra Bắc.

Bác Ba Lê Duẩn và Nghị quyết 15

Năm 1954, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Cà Mau là điểm tập kết lớn nhất Nam Bộ với 200 ngày và Sông Ðốc là bến tiễn đưa bộ đội và đồng bào miền Nam ra Bắc.

Sông Đốc sẵn sàng cho sự kiện 70 năm tập kết ra Bắc (1954-2024)

Chỉ còn 2 ngày nữa tại thị trấn Sông Đốc huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau sẽ diễn ra lễ kỉ niệm 70 năm sự kiện tập kết ra Bắc (1954-2024). Đây là sự kiện có ý nghĩa chính trị quan trọng, ghi nhớ sự kiện các chuyến tàu chở hàng trăm ngàn cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam ra miền Bắc lao động, học tập, nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng miền Nam.

Nói chuyện chuyên đề vai trò phụ nữ trong sự kiện tập kết ra Bắc

Sáng nay (14/11), Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Cà Mau tổ chức buổi chuyên đề Vai trò đóng góp của phụ nữ trong sự kiện tập kết ra Bắc và hưởng ứng tháng hành động vì bình đẳng giới, phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới năm 2024, tại xã Trí Phải, huyện Thới Bình. 

Lịch sử vọng vang

Hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Ðông Dương được ký kết (20/7/1954), Cà Mau được chọn là 1 trong 3 khu vực tập kết, chuyển quân của lực lượng cách mạng ở Nam Bộ với thời hạn 200 ngày. Sau 70 năm, với độ lùi của thời gian, sự kiện tập kết ở Cà Mau đã được đánh giá, khẳng định ngày càng toàn diện, thấu đáo về tầm vóc, ý nghĩa, vai trò hết sức đặc biệt trong tiến trình lịch sử cách mạng của địa phương, Nam Bộ và đất nước.