ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 6-7-25 21:15:49
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ăn ong - Nghề từ thuở khai hoang

Báo Cà Mau (CMO) Về xứ U Minh Hạ không ít lần, rong ruổi tận lõi những cánh rừng tràm, điều kỳ thú dường như vô cùng tận. Ẩn bên trong sự mộc mạc, hoang sơ là sự sáng tạo bền bỉ và tài tình của bao nhiêu lớp người nối tiếp nhau để thích nghi và làm chủ vùng đất được miêu tả là “sấu lội, cọp um”. Và rồi cái nghề ăn ong, nghề rừng hầu như ai cũng biết, cũng thạo ở xứ U Minh Hạ, đã khiến tất cả phải "ngã ngửa" khi có cái “bản lý lịch” vô cùng đặc sắc. Một nghề rừng gắn với những lưu dân từ thời mở đất, là sản vật để tự hào và có tính đại diện cho cả một không gian văn hoá thì làm sao có thể đơn thuần.

Nghề ăn ong có từ bao giờ?

Hầu như tất cả các đầu sách khi viết về văn hoá Nam Bộ đều dành một phần trang trọng để nói về nghề ăn ong. Trong quyển “Cà Mau xưa” của tác giả Huỳnh Minh - Nghê Văn Lương có miêu tả khá cụ thể về cách thức và thời điểm để những người dân xứ rừng đi ăn ong. Những người ăn ong được gọi là thợ, sẽ kết nối với nhau bởi một tổ chức gọi là phong ngạn. Những thành viên có quy ước với nhau, hiểu nôm na là đạo đức nghề nghiệp khi hành nghề ăn ong. Ở thời điểm hiện tại, chỉ mật ong là giữ gần như nguyên vẹn giá trị, nhưng thời trước, sáp ong cũng là một sản phẩm có giá trị lớn của nghề ăn ong.

Ăn ong tại khu vực rừng tràm U Minh Hạ, xã Khánh Bình Tây Bắc, huyện Trần Văn Thời.                       Ảnh: QUỐC RIN

Theo Nhà văn, Nhà biên khảo Sơn Nam, sáp ong được coi là mặt hàng có giá trị trong nhiều lĩnh vực, như làm nến thắp, làm các chất dẫn trong các sản phẩm thủ công mỹ nghệ và y học. Sáp ong quý đến nỗi khi muốn nói ai đó đưa hối lộ, đút lót thì kêu là “đút sáp”. Bởi vậy, không có gì bàn cãi khi nói về tầm quan trọng của nghề ăn ong đối với người dân xứ rừng tràm. Chỉ có điều, các đầu sách chỉ nêu ra một cột mốc rất chung chung, có ý nghĩa về định tính hơn là chính xác, nghề ăn ong ra đời gần như song hành với thời khẩn hoang, mở đất. Đó là sáng tạo tài tình của người dân khi ứng xử với một vùng đất đầy sản vật nhưng cũng còn quá hoang sơ, nguy hiểm chực chờ.

Nhà văn Đoàn Giỏi trong tác phẩm "Đất rừng phương Nam" có miêu tả chi tiết về cách gác kèo ong: “Lưng mang cái gùi tre đan đã trát chai, tay cầm chà gạc… Chọn được vùng rừng tốt, biết mùa xuân tràm sẽ kết hoa nhiều, mới định chỗ đặt kèo. Phải xem hướng gió, tính trước đường bay của ong mật. Đó là những chỗ “ấm”, cây day, không bị ngọn gió thốc thẳng vào và ít khi có những dấu chân người…”. Kèo là một nhánh tràm, gác chênh chếch xong thì phải “rửa”, tức là phát quang. Ong không ưa chỗ bóng rợp, vì mật thường chua và dễ bị ẩm tổ. Kèo phải cũ, tiệp màu với cây rừng, ong mới về đóng. Kèo mới, còn mùi dao búa, kim khí thì ong chúa rất kỵ.

Để rồi, bằng tất cả sự tự hào, Nhà văn Đoàn Giỏi khẳng định chắc chắn: “Trong kho tàng kinh nghiệm của những nhà nuôi ong trên thế giới ghi chép trong các sách vở mà tôi được nghe thầy giáo tôi kể, không thấy có nơi nào nói đến việc lấy mật bằng cách gác kèo như má nuôi tôi đã kể cho tôi nghe”. Cái nghề ăn ong, coi dễ nhưng không phải ai cũng làm được. Phải nắm giữ được những bí quyết nghề nghiệp, giữ được đạo đức của người ăn ong mới mong bền vững. Đó là không ăn ong trên kèo người khác, khi cắt mứt ong, phải chừa lại chừng 1/3 tổ để ong xây lại. Hàng năm, phải có lễ với thổ công, thần rừng để cam kết là không huỷ hoại, tận diệt tài sản của rừng già…

Vừa rồi, tại Cà Mau, tình cờ có nghe việc nơi nọ tổ chức lễ cúng tổ nghề ăn ong, chúng tôi vô cùng thắc mắc. Làm gì có tổ nghề ăn ong, chỉ có các bậc tiền nhân, thổ công, hà bá, thần rừng… là những điều mà xưa nay người thợ ăn ong bày tỏ lòng thành kính để tưởng nhớ và khấn vái. Tìm khắp tài liệu và cả qua kinh nghiệm dân gian cũng chưa thấy nhắc đến chuyện tổ nghề ăn ong. Thế nên, cúng bái cũng phải đúng, không theo kiểu tràn lan. Và sau khi tìm hiểu rất nhiều kênh thông tin, rốt cuộc, chúng tôi cũng phải xin nợ lại một câu trả lời, nghề ăn ong có từ bao giờ. Chỉ có một điều chắc chắn rằng, nghề ăn ong đã gắn bó với dân xứ rừng tràm từ xa xưa, thuở khẩn hoang, mở đất.

Sản vật quý của rừng tràm

Về xã Khánh Bình Tây Bắc, huyện Trần Văn Thời, chúng tôi ghé thăm anh Phạm Duy Khanh, chủ homestay Mười Ngọt để tìm hiểu thêm về nghề ăn ong. Gia đình anh Khanh có diện tích rừng tràm khoảng 60 ha, trong đó có khoảng 10 ha là tràm nguyên sinh. Có mối liên hệ thân tình, nên anh Khanh nhiều lần thủ thỉ tâm tình: “Hồi mới về, cha con tui cực khổ lắm. Cái quần không bao giờ kịp ráo nước. Nhưng mình mê rừng, rồi từ từ, rừng cũng đền đáp cho mình thôi”. Chỉ riêng việc khai thác mật ong từ gác kèo và mật ong ruồi tự nhiên, mỗi năm anh Khanh thu về không dưới 1.000 lít.

Với giá bình quân, ong mật 400.000 đồng/lít, ong ruồi 800.000 đồng/lít, thu nhập không hề ít, nếu không nói là đáng ước mơ. Thế nhưng, với anh Khanh, tiền chưa phải là ưu tiên lớn nhất: “Mình làm nghề, quan trọng nhất là giữ được uy tín, chất lượng mật ong. Bây giờ, người ta giả mạo, nhái thương hiệu mật ong U Minh Hạ, thậm chí pha tạp vào mật ong, khiến người mua ngày càng nghi ngại”. Ăn từ rừng thì phải giữ gìn và biết ơn rừng. Anh Khanh tiết lộ: “Nghề ăn ong hay nghề nào cũng vậy thôi, mình phải biết dưỡng sức cho ong, biết trồng thêm rừng để nhiều hoa cho ong hút mật. Ăn ong phải tuyệt đối chú ý đến việc lửa đóm để tránh cháy rừng”.

Coi vậy mà nghề ăn ong lắm công phu, vất vả. Mật ong chất lượng nhất vào mùa khô, đặc biệt là mùa xuân, khi hoa tràm nở rộ. Anh Khanh dẫn chúng tôi đi trải nghiệm việc ăn ong trong những cái kèo tuốt trong lõi rừng tràm. Tỉ mẩn, nhẫn nại và hoàn toàn tự tin, đúng là phong thái của những người làm chủ rừng tràm. Theo anh Khanh, tốt nhất là không dùng dao cắt sáp ong, bởi có mùi kim loại. Trước người ăn ong vẫn dùng cật tre vót mỏng làm dao cắt. Ăn ong kiêng kỵ nhiều thứ, như chuyện quan hệ vợ chồng, tang chế… Người xưa cho rằng, nếu phạm điều kỵ, ong thường hung dữ và bung ra đánh người. Lấy ong phải chọn buổi trong ngày, khi nào trời dịu thì ong cũng bớt hung dữ, tập trung về tổ tiết mật nhiều. Không ăn ong khi trời vừa đổ mưa xong vì dễ bị ong tấn công…

Ngày trước, ngoài mật ong, sáp ong được đem về chế biến và đựng trong khạp da bò. Mật ong bảo quản đơn giản, nhưng cũng có một số điều lưu ý. Đó là không đựng mật trong chai thuỷ tinh, dễ bể chai. Nếu giữ trong ngăn mát tủ lạnh nên tranh thủ sử dụng. Theo nhiều nghiên cứu, mật ong nguyên chất có hạn sử dụng mãi mãi, nhưng phần lớn mật ong có lẫn tạp chất, tạp chất càng nhiều thì hạn sử dụng càng ngắn lại. Với trẻ em dưới 1 tuổi, tuyệt đối không sử dụng mật ong. Mật ong có giá trị dược liệu và bồi bổ tuyệt vời, cực kỳ hữu ích cho sức khoẻ.

Giám đốc Bảo tàng tỉnh Cà Mau Dương Minh Vĩnh cho biết: “Nghề ăn ong là cả sự kết tinh nghệ thuật ứng xử của người xưa với thiên nhiên trù phú nhưng khắc nghiệt của rừng tràm. Nghề ăn ong vừa được công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia của tỉnh Cà Mau, đó là sự thừa nhận vô cùng xứng đáng và rất tự hào”. Việc gìn giữ và truyền nghề trong cộng đồng cũng đã được khởi động, triển khai một cách bài bản hơn. Theo quan điểm của chúng tôi, người ăn ong không chỉ là thợ, mà đúng hơn là những nghệ nhân dân gian về một nghề rất đặc trưng của vùng rừng tràm U Minh. Họ đã nâng tầm nghề mưu sinh thành  nghệ thuật bao hàm cả giá trị văn hoá và triết lý nhân sinh.

Thương hiệu mật ong rừng tràm U Minh Hạ cũng đã được công nhận là thương hiệu tập thể. Mật ong U Minh Hạ đã mang hương tràm quê hương vươn xa đến mọi nơi. Cái nghề từ thời khẩn hoang, mở cõi, vẫn trường tồn như cây tràm bén vào lòng đất mẹ, dâng mật ngọt, hương sắc cho đời./.

Phạm Hải Nguyên

"Lá chắn thép" nơi cực Nam Tổ quốc - Bài cuối: Dệt nghĩa tình nơi vùng biên

Thắt chặt tình quân - dân, Bộ đội Biên phòng (BÐBP) Cà Mau tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở các địa bàn biên giới biển, đảo, thường xuyên thực hiện các hoạt động nghĩa tình, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho bà con. Ðiều này góp phần củng cố sức mạnh đại đoàn kết, tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

"Lá chắn thép" nơi cực Nam Tổ quốc - Bài 2: Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng

Là lực lượng chủ công trên mặt trận phòng chống các loại tội phạm trên biển, Bộ đội Biên phòng (BÐBP) Cà Mau ngày đêm tuần tra, kiểm soát, kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi xâm phạm chủ quyền, vi phạm pháp luật. Những chiến công liên tiếp trong việc triệt phá các chuyên án, bắt giữ tội phạm đã góp phần giữ vững an ninh trật tự, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế biển.

"Lá chắn thép" nơi cực Nam Tổ quốc

Năm 2025 là năm đặc biệt đối với Bộ đội Biên phòng (BÐBP) Cà Mau khi đánh dấu 50 năm xây dựng, chiến đấu và không ngừng lớn mạnh, trở thành “lá chắn thép” nơi cực Nam Tổ quốc, đảm bảo sự bình yên và vững chắc cho vùng biển, đảo quê hương. Cán bộ, chiến sĩ BÐBP còn là những người bạn, người thân của Nhân dân, cùng chung tay xây dựng thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh, góp phần tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của Bộ đội Cụ Hồ.

Lớn lên từ những chuyến đi

Trong suốt chặng đường theo nghề báo hơn 25 năm, có những lúc áp lực, tưởng chừng sẽ phải dừng lại. Song, khi nhìn lại, tôi thầm cảm ơn và tự hào với những gì mà nghề đã mang lại cho tôi, đó là những chuyến đi, khám phá những vùng đất mới, xa xôi, đặc biệt là những chuyến đi biển, đảo. Chính những hành trình ấy đã tiếp thêm sức mạnh, tình yêu quê hương, đất nước, bùng thêm ngọn lửa nghề trong tim tôi.

Khi ý Ðảng gặp sức dân - Bài cuối: Nâng cao hiệu quả quản trị cộng đồng

Bức tranh toàn cảnh về sự hình thành và những thành công bước đầu của mô hình tổ Nhân dân tự quản (NDTQ) tại Cà Mau, cho thấy một thiết chế đầy tiềm năng trong việc kết nối ý Ðảng với sức mạnh cộng đồng. Tuy nhiên, hành trình xây dựng và phát triển mô hình này không tránh khỏi những “gập ghềnh”, những “nút thắt” cần được tháo gỡ.

Viết báo tết trong chiến khu

Buổi sáng cuối đông năm 1973, bầu trời se lạnh. Chúng tôi ngồi viết báo Tết trong khu vườn dừa của chú Sáu Lân ở ấp Lý Ấn, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

Khi phóng viên địa bàn đồng hành cùng địa phương

Từ thời Báo Minh Hải, phóng viên đã được Toà soạn phân công phụ trách địa bàn để cùng ăn, cùng ở, cùng làm với cơ sở, với bà con, nắm bắt thật sát tình hình địa phương, thực hiện các tin, bài nóng hổi tính thời sự, góp phần và đồng hành cùng với sự ổn định, phát triển của địa bàn phụ trách.

Khi ý Ðảng gặp sức dân

Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân, vì dân”, ở Cà Mau, một mô hình tổ chức xã hội đặc biệt đang âm thầm bén rễ và lan toả sức sống: Tổ Nhân dân tự quản (NDTQ). Thoạt nghe, cụm từ này có vẻ khô khan, mang nặng tính hành chính, nhưng khi đặt chân đến những xóm, ấp nơi mô hình này đang hoạt động, người ta mới cảm nhận được hơi thở của sự tự nguyện, tinh thần đoàn kết và khát vọng làm chủ cuộc sống cộng đồng. Ðây không chỉ là hình thức tập hợp người dân theo địa bàn cư trú, mà sâu xa hơn, nó đang dần khẳng định vai trò như một cầu nối sống động, nơi ý Ðảng được truyền tải một cách gần gũi nhất, hoà quyện với nhu cầu và sức mạnh nội tại của Nhân dân.

Với nghề, tôi thấy mình như vừa chập chững tập đi...

Tôi bắt đầu công việc viết lách từ rất sớm, như các bạn tuổi mới lớn khác, tập tành sáng tác thơ và tản văn. Ở những năm học cấp III, tôi chi tiêu cho mua dụng cụ học tập, hàng quà hay những thứ lặt vặt khác, từ chính nguồn nhuận bút viết lách.

Thức cùng sóng biển

Hầu như năm nào cũng vậy, khi những làn gió chướng đầu tiên lao xao trên cành lá là cái rạo rực về những bài báo xuân cứ thôi thúc trong mỗi chúng tôi.