ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 21-9-24 11:27:21
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bạc bẽo phận giữ rừng: Bài 2: Nhiều bất cập trong ăn chia sản lượng khai thác

Báo Cà Mau Gia đình bà Quách Kim Ái về ấp Mai Hoa nhận khoán đất rừng từ những năm 1990. Sau bao năm nỗ lực giữ rừng, 10,5 ha rừng đước của gia đình cũng đến hạn khai thác được gần phân nửa. Tuy nhiên, niềm vui và hy vọng của gia đình bà nhanh chóng biến thành nỗi thất vọng và bức xúc khi Ban Quản lý rừng phòng hộ Tam Giang I vào thông báo giá trị 4 công rừng của gia đình bà được 14 triệu đồng, sau khi trừ chi phí từ trồng, khảo sát thiết kế kỹ thuật và 30% ăn chia lại cho chủ rừng.

Thiết kế, thẩm định giá khi khai thác rừng đước chưa rõ ràng, thiếu minh bạch và thấp hơn so với thực tế đang là vấn đề khiến nhiều hộ dân giữ rừng phòng hộ vô cùng bức xúc.

Dân bảo chưa

Gia đình bà Quách Kim Ái về ấp Mai Hoa nhận khoán đất rừng từ những năm 1990. Sau bao năm nỗ lực giữ rừng, 10,5 ha rừng đước của gia đình cũng đến hạn khai thác được gần phân nửa.

Tuy nhiên, niềm vui và hy vọng của gia đình bà nhanh chóng biến thành nỗi thất vọng và bức xúc khi Ban Quản lý rừng phòng hộ Tam Giang I vào thông báo giá trị 4 công rừng của gia đình bà được 14 triệu đồng, sau khi trừ chi phí từ trồng, khảo sát thiết kế kỹ thuật và 30% ăn chia lại cho chủ rừng.

Đối với người giữ rừng, cây đước là tài sản quý giá nhất. Nhưng với cơ chế ăn chia như hiện nay lợi ích từ việc giữ rừng không tương xứng với công sức của họ.

Thấy giá quá thấp, gia đình thương lượng riêng với thầu khai thác nâng lên được 24 triệu đồng. 
Mặc dù đã được nâng lên thêm được gần 90% so với giá thiết kế, nhưng bà Ái cho biết, khi thầu khai thác xong, mang cây ra bà thấy là muốn xỉu liền: trên dưới 60m3. Với sản lượng này, cùng với giá trên thị trường khoảng 900.000/m3 thì rõ ràng, thiết kế ban đầu không được một nửa. 

Bà Ái bộc bạch, theo cách tính của Ban Quản lý rừng phòng hộ Tam Giang I, người dân nơi đây đang sống và sinh hoạt trên ngọn đước. Phần đất gia đình trước kia nhận khoán là 3 ha. Sau đó tiến hành phóng tuyến đường thuỷ, rồi lộ giao thông nông thôn, điện... nhưng khi tính phần trăm trồng rừng quản lý rừng vẫn tính toàn bộ các phần đất như ban đầu nên diện tích mặt nước người dân nuôi tôm không còn bao nhiêu.

Sự quản lý có phần cứng nhắc đó đã khiến người dân nhận khoán đất rừng gặp khó khăn trong sản xuất.

Theo ông Lê Văn Hậu, Trưởng ấp Mai Hoa, có hộ ông Trần Ngọc Duy nhận khoán phần đất giáp với khu vực rừng phòng hộ rất xung yếu, sóng biển làm sạt lở tới bờ bao, nhưng xin đưa cơ giới vào gia cố lại nhưng không được. Hiện nay khi triều cường lên là nước biển tràn vào vuông làm thất thoát tôm nuôi.

Trong khi đó, ông Hậu bức xúc, đất của nhân viên Ban Quản lý rừng phòng hộ Tam Giang I thì họ muốn làm gì thì làm, thậm chí đưa cơ giới vào hạ mặt trảng vuông để nuôi tôm. Còn sau khai thác muốn trồng lại thì trồng, không trồng cũng chẳng sao. 

Rừng phòng hộ biển Đông ở Cà Mau không đủ sức giữ bờ biển khỏi xói lở. Tại cửa Bồ Đề, huyện Ngọc Hiển, mỗi năm biển lắn sâu vào hàng trăm mét.

Chuyện đã qua gần 3 năm nhưng mỗi khi nhắc lại ông Trần Văn Kiệt, Tiểu khu Rạch Dà, vẫn còn vô cùng bức xúc. Gia đình ông Kiệt có 5,6 ha rừng đến tuổi khai thác vào năm 2013, theo đó, diện tích được khai thác là 3 công.

Những tưởng thành quả giữ rừng bao năm sẽ được đền đáp xứng đáng, ông sẽ có đủ tiền để nuôi người con đang theo học đại học, Nhưng dự tính ấy mau chóng tan biến khi ông được thông báo 3 công rừng chỉ được “ăn chia” 12 triệu đồng.

Sau hơn 1 tháng “kỳ kèo” với thầu, cuối cùng, ông bán được 20 triệu đồng. Dù đã nâng lên gần gấp đôi nhưng ông Kiệt vẫn vô cùng bức xúc khi thấy sản lượng khai thác thực tế lên đến 125m3, tính ra trên 100 triệu đồng.

Ông Kiệt lắc đầu: “Không biết họ tính theo kiểu nào mà mức chênh lệch lại lớn đến như vậy. Thấy sản lượng thầu khai thác mang ra ngoài là không ăn ngủ gì được, mấy năm rồi mà nhắc lại còn tức”.

Câu chuyện chênh lệch giữa sản lượng với thiết kế không chỉ được ghi nhận tại hộ gia đình ông Kiệt, bà Ái, mà là bức xúc chung của đại bộ phận người dân có nhận khoán đất rừng nơi đây. Như sản lượng khảo sát thiết kế của gia đình ông Phạm Thanh Hậu là 50m3 nhưng sản lượng thực tế lên đến 100 m3. Hay rừng của ông Nguyễn Quốc Vũ có sản lượng thiết kế 70m3 nhưng khi khai thác sản lượng lên đến 150m3.

“Đúng là việc đánh giá sản lượng cây đứng trong rừng thì người dân không ai đòi hỏi mức độ chính xác 100% nhưng nếu chênh lệch thì cũng khoảng 15%-20%, đằng này gần gấp đôi là quá lớn. Rồi thêm tiền bị trừ chi phí các thứ nên dân giữ rừng mấy mươi năm mà thu có được bao nhiêu đâu”, ông Lê Văn Hậu bày tỏ.

Ban Quản lý bảo “đã công khai minh bạch”

Sự bức xúc của người dân trong việc thiết kế sản lượng được ông Nguyễn Quốc Em, Trưởng Ban Quản lý rừng phòng hộ Tam Giang I giải thích, trong thiết kế và sản lượng thực tế có chênh lệch là do khách quan, do mật độ cây rừng ở đây không có độ thoáng nên đánh giá, thẩm định chưa chính xác. Bên cạnh đó thầu mua thì cắt chiều dài củi là 0,9 m chứ không phải 1m.

Ngoài ra, ông Em cho biết thêm, các trường hợp người dân bán với giá cao hơn so với giá thiết kế xuất phát từ việc dân xin thêm phần củi dưới chang, nhà thầu thấy có lời nên cho thêm vì trong quá trình thiết kế chỉ tính từ phần thân.

Ông Em khẳng định, thiết kế là vậy nhưng trong quá trình khai thác có sự giám sát của người dân, nếu sản lượng khai thác cao hơn so với thực tế thì phần tăng thêm đó cũng chia thêm cho người dân.

Ngoài ra, đối với hình thức ăn chia, ông Em khẳng định, thiết kế chỉ là cơ sở dự toán ban đầu để tiến hành họp dân thông báo và đấu thầu. Sau khi đã có sản lượng khai thác thực tế mới tiến hành chia phần trăm cho người dân theo quy định (dân hưởng 7, Ban Quản lý rừng phòng hộ hưởng 3, sau khi đã trừ hết chi phí).

Như vậy, giữa chuyện thiết kế khai thác và ăn chia đang xảy ra mâu thuẫn khá lớn. Dân thì nói thiếu chính xác, chưa minh bạch còn ban quản lý lại bảo đã công khai, có biên bản ký nhận rõ ràng giữa các tiểu khu và người dân. Sau khi so sánh sản lượng khai thác, ghi nhận của người dân và tiểu khu khớp với nhau mới tiến hành ăn chia. Do đó, nếu sản lượng thực tế cao hơn so với thiết kế thì phần dư đó người dân cũng được chia thêm.

Ông Em cho biết “người dân sợ phải chia lại 30 % cho ban quản lý nên tự thoả thuận với nhà thầu để được hưởng trọn”.  Rõ ràng nhận định này mâu thuẫn với chính ý kiến khẳng định trước đó của ông Em, là sau khi có sản lượng thực tế mới tiến hành ăn chia và trong quá trình khai thác có sự giám sát và ghi nhận của các tiểu khu, nếu dân có thể thoả thuận phần tăng thêm này liệu có qua mặt được ban quản lý?./

Cùng một loại rừng, cùng cơ chế quản lý, nhưng cách thức tính phần trăm ăn chia và phương pháp, hình thức đấu thầu giữa Ban Quản lý rừng phòng hộ Tam Giang I và Ban Quản lý rừng phòng hộ Kiến Vàng hoàn toàn khác nhau.

Theo ông Trần Thanh Nhàn, Phó Trưởng Ban Quản lý rừng phòng hộ Kiến Vàng, tỷ lệ ăn chia giữa ban quản lý và người dân được tính theo hình thức lấy tuổi rừng nhân cho 6% để ra tỷ lệ sản lượng dân được hưởng, có hộ được chia lên đến 85% giá trị khai thác. Đồng thời, mức độ chênh lệch giữa thiết kế khai thác và sản lượng khai thác thực tế khoảng 3%-4%, người dân được tham gia từ khâu đấu giá với nhà thầu cho đến giám sát sản lượng khai thác.

Điều tra của Sĩ Tắc - Nguyễn Phú 

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài cuối: Chìa khoá mở rào

Ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo hiện nay được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững trên tất cả các lĩnh vực. Ðối với 2 ngành hàng chủ lực là con tôm và con cua, càng phải đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo để tạo bước đột phá vượt qua khó khăn, tiến tới phát triển bền vững.

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài 2: Vào chặng đường "địa hình"

Vài năm gần đây, 2 ngành hàng chủ lực của tỉnh đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Ðường đua trên thị trường của tôm, cua Cà Mau đang bước vào chặng “vượt địa hình” do biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả của các quốc gia trong khu vực và quốc tế...

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực

Tôm, cua Cà Mau là 2 ngành hàng chủ lực nâng cao đời sống của đại bộ phận người dân trên địa bàn tỉnh, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngành thuỷ sản tỉnh nhà nói riêng, cả nước nói chung. Tuy nhiên, những năm gần đây, 2 mặt hàng này đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, cần có sự thay đổi nhanh, toàn diện để tạo đột phá và phát triển bền vững.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài cuối: Xứng đáng với vai trò, trọng trách

Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, chất lượng hoạt động của HÐND 3 cấp tại Cà Mau đã trở thành quyết tâm, xu thế để đại biểu dân cử, cơ quan dân cử xứng đáng với vai trò, trọng trách được cử tri tin tưởng trao gởi. HÐND các cấp của vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc đang ra sức phụng sự, phấn đấu, cống hiến vì mục tiêu xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 3: Tiếp xúc cử tri “đúng người, đúng việc, đúng vai”

Ông Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HÐND tỉnh Cà Mau, từng rất trăn trở: “Tiếp xúc cử tri mà cán bộ nhiều hơn dân thì chưa đúng người, đúng việc, đúng vai. Tình trạng này phải chấn chỉnh ngay, phải để tiếp xúc cử tri là nơi thể hiện quyền làm chủ thật sự, thực chất của Nhân dân; để bà con cử tri đóng góp ý kiến, đề đạt tâm tư, nguyện vọng và hiến kế góp phần vào sự ổn định, phát triển chung của địa phương”.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 2: Giám sát có trọng tâm, trọng điểm

Giám sát là hoạt động quan trọng của HÐND các cấp, góp phần xác định vị thế, năng lực hoạt động của đại biểu dân cử, cơ quan dân cử, tạo dựng niềm tin và sự tín nhiệm đối với cử tri. Giám sát có trọng tâm, trọng điểm; đa dạng hình thức giám sát, được đo đếm bằng kết quả thực tế, sự đánh giá của cử tri chính là nỗ lực, mục tiêu mà các cấp HÐND tỉnh Cà Mau đang dồn sức thực hiện.

Hành trình của khát vọng và hành động

HÐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân; thay mặt Nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương bằng việc ban hành các nghị quyết tại các kỳ họp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng - an ninh và trong phạm vi thẩm quyền theo quy định pháp luật.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài 2: Linh hoạt với những mô hình hiệu quả

Giai đoạn 2020-2025, Cà Mau có nhiều cách làm chủ động, linh hoạt trong thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững. Nhiều mô hình trồng trọt, chăn nuôi, chuyển đổi nghề hiệu quả, hàng loạt kế hoạch đào tạo lao động tại địa phương đã giúp người dân vượt khó vươn lên, mang tính thực tiễn cao.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài cuối: Nhìn từ thực tế

Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, đến năm 2022 Trung ương mới bắt đầu phân bổ kế hoạch vốn và ban hành các văn bản hướng dẫn, tổ chức thực hiện. Dù còn gặp nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách, các hướng dẫn từ Trung ương chưa đầy đủ, kịp thời nhưng được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HÐND, UBND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành cấp tỉnh, cùng với sự nỗ lực của địa phương và người dân, các hoạt động thuộc chương trình đã và đang triển khai thực hiện cơ bản đạt mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

“Thắng giặc nghèo” không khó

Với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền, sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, nhất là sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của người dân, các chính sách giảm nghèo được triển khai thực hiện đồng bộ trên địa bàn tỉnh, mang lại kết quả tích cực. Nhiều hộ nghèo, cận nghèo sau khi thoát nghèo có cuộc sống ổn định, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng lên.