ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 24-11-24 13:20:05
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bạc bẽo phận giữ rừng: Bài 2: Nhiều bất cập trong ăn chia sản lượng khai thác

Báo Cà Mau Gia đình bà Quách Kim Ái về ấp Mai Hoa nhận khoán đất rừng từ những năm 1990. Sau bao năm nỗ lực giữ rừng, 10,5 ha rừng đước của gia đình cũng đến hạn khai thác được gần phân nửa. Tuy nhiên, niềm vui và hy vọng của gia đình bà nhanh chóng biến thành nỗi thất vọng và bức xúc khi Ban Quản lý rừng phòng hộ Tam Giang I vào thông báo giá trị 4 công rừng của gia đình bà được 14 triệu đồng, sau khi trừ chi phí từ trồng, khảo sát thiết kế kỹ thuật và 30% ăn chia lại cho chủ rừng.

Thiết kế, thẩm định giá khi khai thác rừng đước chưa rõ ràng, thiếu minh bạch và thấp hơn so với thực tế đang là vấn đề khiến nhiều hộ dân giữ rừng phòng hộ vô cùng bức xúc.

Dân bảo chưa

Gia đình bà Quách Kim Ái về ấp Mai Hoa nhận khoán đất rừng từ những năm 1990. Sau bao năm nỗ lực giữ rừng, 10,5 ha rừng đước của gia đình cũng đến hạn khai thác được gần phân nửa.

Tuy nhiên, niềm vui và hy vọng của gia đình bà nhanh chóng biến thành nỗi thất vọng và bức xúc khi Ban Quản lý rừng phòng hộ Tam Giang I vào thông báo giá trị 4 công rừng của gia đình bà được 14 triệu đồng, sau khi trừ chi phí từ trồng, khảo sát thiết kế kỹ thuật và 30% ăn chia lại cho chủ rừng.

Đối với người giữ rừng, cây đước là tài sản quý giá nhất. Nhưng với cơ chế ăn chia như hiện nay lợi ích từ việc giữ rừng không tương xứng với công sức của họ.

Thấy giá quá thấp, gia đình thương lượng riêng với thầu khai thác nâng lên được 24 triệu đồng. 
Mặc dù đã được nâng lên thêm được gần 90% so với giá thiết kế, nhưng bà Ái cho biết, khi thầu khai thác xong, mang cây ra bà thấy là muốn xỉu liền: trên dưới 60m3. Với sản lượng này, cùng với giá trên thị trường khoảng 900.000/m3 thì rõ ràng, thiết kế ban đầu không được một nửa. 

Bà Ái bộc bạch, theo cách tính của Ban Quản lý rừng phòng hộ Tam Giang I, người dân nơi đây đang sống và sinh hoạt trên ngọn đước. Phần đất gia đình trước kia nhận khoán là 3 ha. Sau đó tiến hành phóng tuyến đường thuỷ, rồi lộ giao thông nông thôn, điện... nhưng khi tính phần trăm trồng rừng quản lý rừng vẫn tính toàn bộ các phần đất như ban đầu nên diện tích mặt nước người dân nuôi tôm không còn bao nhiêu.

Sự quản lý có phần cứng nhắc đó đã khiến người dân nhận khoán đất rừng gặp khó khăn trong sản xuất.

Theo ông Lê Văn Hậu, Trưởng ấp Mai Hoa, có hộ ông Trần Ngọc Duy nhận khoán phần đất giáp với khu vực rừng phòng hộ rất xung yếu, sóng biển làm sạt lở tới bờ bao, nhưng xin đưa cơ giới vào gia cố lại nhưng không được. Hiện nay khi triều cường lên là nước biển tràn vào vuông làm thất thoát tôm nuôi.

Trong khi đó, ông Hậu bức xúc, đất của nhân viên Ban Quản lý rừng phòng hộ Tam Giang I thì họ muốn làm gì thì làm, thậm chí đưa cơ giới vào hạ mặt trảng vuông để nuôi tôm. Còn sau khai thác muốn trồng lại thì trồng, không trồng cũng chẳng sao. 

Rừng phòng hộ biển Đông ở Cà Mau không đủ sức giữ bờ biển khỏi xói lở. Tại cửa Bồ Đề, huyện Ngọc Hiển, mỗi năm biển lắn sâu vào hàng trăm mét.

Chuyện đã qua gần 3 năm nhưng mỗi khi nhắc lại ông Trần Văn Kiệt, Tiểu khu Rạch Dà, vẫn còn vô cùng bức xúc. Gia đình ông Kiệt có 5,6 ha rừng đến tuổi khai thác vào năm 2013, theo đó, diện tích được khai thác là 3 công.

Những tưởng thành quả giữ rừng bao năm sẽ được đền đáp xứng đáng, ông sẽ có đủ tiền để nuôi người con đang theo học đại học, Nhưng dự tính ấy mau chóng tan biến khi ông được thông báo 3 công rừng chỉ được “ăn chia” 12 triệu đồng.

Sau hơn 1 tháng “kỳ kèo” với thầu, cuối cùng, ông bán được 20 triệu đồng. Dù đã nâng lên gần gấp đôi nhưng ông Kiệt vẫn vô cùng bức xúc khi thấy sản lượng khai thác thực tế lên đến 125m3, tính ra trên 100 triệu đồng.

Ông Kiệt lắc đầu: “Không biết họ tính theo kiểu nào mà mức chênh lệch lại lớn đến như vậy. Thấy sản lượng thầu khai thác mang ra ngoài là không ăn ngủ gì được, mấy năm rồi mà nhắc lại còn tức”.

Câu chuyện chênh lệch giữa sản lượng với thiết kế không chỉ được ghi nhận tại hộ gia đình ông Kiệt, bà Ái, mà là bức xúc chung của đại bộ phận người dân có nhận khoán đất rừng nơi đây. Như sản lượng khảo sát thiết kế của gia đình ông Phạm Thanh Hậu là 50m3 nhưng sản lượng thực tế lên đến 100 m3. Hay rừng của ông Nguyễn Quốc Vũ có sản lượng thiết kế 70m3 nhưng khi khai thác sản lượng lên đến 150m3.

“Đúng là việc đánh giá sản lượng cây đứng trong rừng thì người dân không ai đòi hỏi mức độ chính xác 100% nhưng nếu chênh lệch thì cũng khoảng 15%-20%, đằng này gần gấp đôi là quá lớn. Rồi thêm tiền bị trừ chi phí các thứ nên dân giữ rừng mấy mươi năm mà thu có được bao nhiêu đâu”, ông Lê Văn Hậu bày tỏ.

Ban Quản lý bảo “đã công khai minh bạch”

Sự bức xúc của người dân trong việc thiết kế sản lượng được ông Nguyễn Quốc Em, Trưởng Ban Quản lý rừng phòng hộ Tam Giang I giải thích, trong thiết kế và sản lượng thực tế có chênh lệch là do khách quan, do mật độ cây rừng ở đây không có độ thoáng nên đánh giá, thẩm định chưa chính xác. Bên cạnh đó thầu mua thì cắt chiều dài củi là 0,9 m chứ không phải 1m.

Ngoài ra, ông Em cho biết thêm, các trường hợp người dân bán với giá cao hơn so với giá thiết kế xuất phát từ việc dân xin thêm phần củi dưới chang, nhà thầu thấy có lời nên cho thêm vì trong quá trình thiết kế chỉ tính từ phần thân.

Ông Em khẳng định, thiết kế là vậy nhưng trong quá trình khai thác có sự giám sát của người dân, nếu sản lượng khai thác cao hơn so với thực tế thì phần tăng thêm đó cũng chia thêm cho người dân.

Ngoài ra, đối với hình thức ăn chia, ông Em khẳng định, thiết kế chỉ là cơ sở dự toán ban đầu để tiến hành họp dân thông báo và đấu thầu. Sau khi đã có sản lượng khai thác thực tế mới tiến hành chia phần trăm cho người dân theo quy định (dân hưởng 7, Ban Quản lý rừng phòng hộ hưởng 3, sau khi đã trừ hết chi phí).

Như vậy, giữa chuyện thiết kế khai thác và ăn chia đang xảy ra mâu thuẫn khá lớn. Dân thì nói thiếu chính xác, chưa minh bạch còn ban quản lý lại bảo đã công khai, có biên bản ký nhận rõ ràng giữa các tiểu khu và người dân. Sau khi so sánh sản lượng khai thác, ghi nhận của người dân và tiểu khu khớp với nhau mới tiến hành ăn chia. Do đó, nếu sản lượng thực tế cao hơn so với thiết kế thì phần dư đó người dân cũng được chia thêm.

Ông Em cho biết “người dân sợ phải chia lại 30 % cho ban quản lý nên tự thoả thuận với nhà thầu để được hưởng trọn”.  Rõ ràng nhận định này mâu thuẫn với chính ý kiến khẳng định trước đó của ông Em, là sau khi có sản lượng thực tế mới tiến hành ăn chia và trong quá trình khai thác có sự giám sát và ghi nhận của các tiểu khu, nếu dân có thể thoả thuận phần tăng thêm này liệu có qua mặt được ban quản lý?./

Cùng một loại rừng, cùng cơ chế quản lý, nhưng cách thức tính phần trăm ăn chia và phương pháp, hình thức đấu thầu giữa Ban Quản lý rừng phòng hộ Tam Giang I và Ban Quản lý rừng phòng hộ Kiến Vàng hoàn toàn khác nhau.

Theo ông Trần Thanh Nhàn, Phó Trưởng Ban Quản lý rừng phòng hộ Kiến Vàng, tỷ lệ ăn chia giữa ban quản lý và người dân được tính theo hình thức lấy tuổi rừng nhân cho 6% để ra tỷ lệ sản lượng dân được hưởng, có hộ được chia lên đến 85% giá trị khai thác. Đồng thời, mức độ chênh lệch giữa thiết kế khai thác và sản lượng khai thác thực tế khoảng 3%-4%, người dân được tham gia từ khâu đấu giá với nhà thầu cho đến giám sát sản lượng khai thác.

Điều tra của Sĩ Tắc - Nguyễn Phú 

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.