Thứ sáu, 5-9-25 12:43:12
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bài học cuộc sống từ hồi ký “Gánh gánh… gồng gồng… ” của Xuân Phượng

Báo Cà Mau Hồi đầu tháng 1/2025, quyển hồi ký “Khắc đi… Khắc đến” của nữ đạo diễn 96 tuổi Nguyễn Thị Xuân Phượng được trao giải Mai Vàng ở hạng mục tác phẩm văn học. Ra mắt tháng 9/2024, chỉ sau 2 tháng phát hành, sách đã tái bản lần thứ 3 với tổng lượng in 4 ngàn bản.

Bìa quyển hồi ký “Gánh gánh... gồng gồng…” của Ðạo diễn Xuân Phượng.

Quyển sách dày hơn 200 trang, ghi lại quá trình tác giả gầy dựng phòng tranh Lotus Gallery (Quận 7, TP Hồ Chí Minh) từ hơn 30 năm trước và sự nỗ lực đưa tranh triển lãm ở nước ngoài nhằm tôn vinh và quảng bá văn hoá Việt Nam với thế giới. Quá trình ấy có lắm niềm vui, nhưng cũng đầy nhiêu khê, vất vả...

Tôi tò mò và biết thêm, bà còn có quyển hồi ký đầu tay với tựa đề “Gánh gánh... gồng gồng...”, xuất bản năm 2000, tái bản đến 12 lần với hơn 25 ngàn bản và được nhận 2 giải thưởng của Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh và Hội Nhà văn Việt Nam.

Quyển sách kể về cuộc đời người phụ nữ là bà, trải dài qua 2 cuộc kháng chiến trường kỳ, gắn liền với bao gian khổ, thăng trầm của đất nước.

Hơn 300 trang của quyển hồi ký “Gánh gánh... gồng gồng...” cứ “trói buộc” người đọc bởi ngồn ngộn chi tiết, sự kiện đầy cuốn hút.

Bà xuất thân từ hoàng tộc, cha là hiệu trưởng một trường tiểu học danh giá và duy nhất ở Ðà Lạt thời Pháp, được sống trong nhung lụa, được học trường Tây, giỏi tiếng Pháp. Nhưng cuộc đời cô bé Nguyễn Thị Xuân Phượng sinh năm 1929) lại rẽ sang một hướng khác với đầy gian truân, vất vả khi bản thân tự nguyện tham gia các tổ chức học sinh cứu quốc năm 1945.

Ngay lúc vừa tốt nghiệp tiểu học sang học trường Tây, bà đã có phản kháng mạnh mẽ khi cô bạn thân ngồi cạnh là người Pháp giẫm đạp lên lá cờ của đất nước.

Ý thức tự tôn dân tộc đã sớm hình thành trong bà, và chính điều đó thôi thúc cô gái 16 tuổi "xếp bút nghiên", trốn gia đình đi kháng chiến. “... Những học sinh vào tuổi 16, 17 chúng tôi sẵn sàng rời bỏ gia đình, đồng lòng muốn đuổi quân xâm lược. Nguyện vọng của chúng tôi bấy giờ chỉ có bảy chữ: Giành lại độc lập cho đất nước” (trang 29).

Ban đầu bà tham gia công tác tuyên truyền, tiếp tế, cùng các bạn trong nhóm tự biên tự diễn những vở kịch để giải thích về cuộc kháng chiến, kêu gọi đồng bào tham gia chống Pháp, tham gia đóng góp lương thực nuôi quân... Phải ngủ bờ ngủ bụi, ăn đói, uống thiếu... chịu cực khổ trăm bề. Dẫu thế, tuổi trẻ vẫn luôn tràn đầy nhiệt huyết, sẵn sàng cống hiến vì lý tưởng cứu nước.

Ðạo diễn Xuân Phượng (bên trái) gặp mẹ Suốt (người giữa), thời bà làm phóng viên chiến trường. (Ảnh chụp từ sách)

Ðạo diễn Xuân Phượng (bên trái) gặp mẹ Suốt (người giữa), thời bà làm phóng viên chiến trường. (Ảnh chụp từ sách)

Cho đến bây giờ bà vẫn không quên, khi mặt trận ở Huế vỡ, phải đi đường rừng từ Huế ra Nghệ An dài hơn 300 cây số, suốt nhiều đêm: “Cảm giác đau rợn người vẫn còn nguyên. Năm 1946-1947 đối với tôi là năm kỷ niệm những trận đau cùng cực của đôi chân trần đạp lên đá nhọn” (trang 38).

Ðó mới chỉ là “màn dạo đầu”, quá trình từ lúc tham gia kháng chiến đến giải phóng đất nước và trải qua thời bao cấp, còn biết bao nhiêu nghiệt ngã mà bà đã nếm trải.

“Mãi về sau, khi hoàn cảnh đã khá hơn, tôi cố gắng giữ được cách đối xử tử tế với những người gặp khó khăn, nghèo khổ” (trang 93).

Sau công tác tuyên truyền, bà làm quân y vụ; đầu quân vào Nha Nghiên cứu Kỹ thuật Bộ Quốc phòng của Giáo sư, Viện sĩ Trần Ðại Nghĩa, làm thuốc nổ; tham gia thực hiện trang tin của Bộ Tài chính; học y sĩ, rồi bác sĩ, công tác ở Uỷ ban Liên lạc Văn hoá với người nước ngoài, nhiệm vụ là chăm sóc sức khoẻ cho khách quốc tế đến thăm Việt Nam; phiên dịch cho phóng viên phương Tây vào chiến trường Việt Nam; trở thành phóng viên chiến trường, đạo diễn phim tài liệu... Chỉ cần điểm qua công việc cũng phần nào thấy được những gian nan mà bà phải đối mặt.

Nhưng những gì bà đã từng trải còn dữ dội gấp nhiều lần và thật khó có thể hình dung.

Một phụ nữ chuyển dạ đứa con đầu lòng giữa rừng sâu núi thẳm, được cáng đi bộ xuyên rừng bảy cây số, rồi sinh rớt trên đò - trong khi chồng thì lúc vợ chuyển dạ, vì nhiệm vụ phải đi ngay (chồng bà là sĩ quan pháo binh).

Cũng người phụ nữ ấy, sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ, chồng vì nhiệm vụ, một mình đùm túm hai con nhỏ, một địu trên lưng, một ngồi trong gánh, từ chiến khu lội đường rừng núi nhiều đêm ngày để về Thủ đô Hà Nội.

“Mình hết lòng yêu thương chăm sóc ai thì bù lại mình sẽ nhận được rất nhiều. Nên sống tử tế là một cách sống khôn ngoan nhất” (trang 114).

Và còn biết bao nghịch cảnh, chông gai khác. Thế nhưng bà vẫn kiên cường, đầy bản lĩnh và gánh gồng gia đình vượt qua tất cả.

Không chỉ có trở ngại, ở hồi ký còn đầy ắp những yêu thương, sự chia ngọt sẻ bùi trong khó khăn, thiếu thốn; ở đó còn có tình cảm bạn bè quốc tế thật hay, thật đẹp.

Hành trình đến với nghệ thuật của bà có hai điểm nhấn. Năm 1969, ở tuổi 40, đã có 3 con, khi đang là bác sĩ chăm sóc sức khoẻ cho khách quốc tế đến thăm, làm việc ở Việt Nam, một công việc lắm người mơ, thì bà rẽ ngang làm phóng viên chiến trường, theo đề xuất của đạo diễn Joris Ivens, một nhà điện ảnh cách mạng nổi tiếng thế giới. Ông đã nhìn thấy tố chất của bà qua chuyến công tác vào tuyến lửa Vĩnh Linh làm bộ phim nổi tiếng “Vĩ tuyến 17 - chiến tranh Nhân dân” mà bà là người đi theo làm phiên dịch.

Và ở lĩnh vực mới này, bà đã ghi đậm dấu ấn với vai trò đạo diễn cho nhiều phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế.

Bà Xuân Phượng trao đổi kế hoạch đi vào tuyến lửa Vĩnh Linh làm phim tài liệu “Vĩ tuyến 17 - chiến tranh Nhân dân” cùng Ðạo diễn Joris Ivens, khi bà làm phiên dịch. (Ảnh chụp từ sách)

Bà Xuân Phượng trao đổi kế hoạch đi vào tuyến lửa Vĩnh Linh làm phim tài liệu “Vĩ tuyến 17 - chiến tranh Nhân dân” cùng Ðạo diễn Joris Ivens, khi bà làm phiên dịch. (Ảnh chụp từ sách)

Chưa dừng lại ở đó, năm 1991, 7 năm sau về hưu, dù đã ở tuổi 62, bà còn có một quyết định táo bạo là mở phòng tranh Lotus Gallery, tại TP Hồ Chí Minh (một trong những phòng tranh tư nhân đầu tiên bấy giờ), đồng thời mang tranh đi triển lãm nước ngoài.

Từ đấy lại tiếp tục một quãng đời đầy sôi động, thú vị, những niềm hạnh phúc mới vì đã nâng niu, làm toả sáng nhiều tài năng nghệ thuật bị cuộc đời vùi lấp. Và thế giới lại biết thêm về Việt Nam, thán phục hơn với những giá trị văn hoá tinh thần (chứ không chỉ có vết thương chiến tranh với cái nhìn thương hại).

“Năm tôi mười lăm tuổi, bà ngoại dặn: “Con ơi, ở với người xấu rất dễ xử, khó nhất là đối xử sao cho đầy đủ với người tốt”. Lời khuyên khôn ngoan ấy theo tôi suốt đời” (trang 175).

Chia sẻ với truyền thông, bà từng bảo, cuộc sống không chỉ “nhìn” mà còn phải “thấy”. Nhìn một bông hoa đẹp, thấy được đằng sau nó là công người chăm sóc; nhìn một thành quả, thấy được đằng sau nó là sự nỗ lực không ngừng... Ðó chính là cái nhìn bao dung, sâu sắc và thấu đáo của con người từng trải và là bài học cho nhiều người.

Bà cũng từng khuyên: “Ðừng nản chí vì khó khăn, đừng tự giới hạn mình”. Và đó cũng chính là con người của Ðạo diễn Nguyễn Thị Xuân Phượng. Bước đường đời của bà là bước đường của con người không nản chí và không tự ti, tự giới hạn.

Với lối viết nhấn nhá, theo mạch cảm xúc, câu chuyện cuộc đời bà có sức lôi cuốn lạ thường. Ðọc hồi ký "Gánh gánh... gồng gồng...", không chỉ hiểu thêm về lịch sử, có được những bài học cuộc sống vô giá mà còn được truyền năng lượng tích cực, giúp ta có thêm nghị lực và bản lĩnh trước cuộc đời.

Gần thế kỷ đời người, bà còn rất nhiều điều muốn viết, muốn sẻ chia. Cầu chúc bà thật khoẻ mạnh và tiếp tục cho ra đời những sản phẩm tinh thần đầy giá trị./.

 

Trang Thăm

 

Xẻo Đước anh hùng

Những người dân cố cựu ấp Xẻo Đước, trong đó có những người trực tiếp tham gia công tác tại các cơ quan của Tỉnh uỷ Cà Mau khi nhắc nhớ Khu Căn cứ Tỉnh uỷ Xẻo Đước (ấp Xẻo Đước, xã Phú Mỹ) là giọng nói sôi nổi, đôi mắt sáng rực, lòng trào dâng sự tự hào khôn tả.

Mùa vú sữa trên miền quê mới

Tháng 8, khi từng cơn gió từ biển Tây lướt qua rặng đước, rừng tràm bạt ngàn xanh thẫm, cũng là lúc lòng người dân Cà Mau lại trào dâng xúc động, thành kính nhớ về Bác Hồ. Hơn 55 năm kể từ ngày Người để lại bản Di chúc thiêng liêng, mỗi câu chữ vẫn còn vẹn nguyên giá trị, soi sáng hành trình cách mạng, nâng đỡ ý chí và tinh thần Nhân dân trên từng nẻo quê hương cực Nam của Tổ quốc.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài cuối: Hành động để đổi mới, vươn xa 

Nghị quyết 68 đã xác định những mục tiêu chiến lược, nhưng mục tiêu ấy không thể biến thành hiện thực nếu khâu tổ chức thực hiện thiếu sự tập trung, quyết liệt. Để nghị quyết thực sự đi vào đời sống xã hội một cách thực chất, trở thành nền tảng, động lực và khơi dậy khát vọng, thành tựu phát triển của khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) trong kỷ nguyên vươn mình, cần lộ trình hành động rõ ràng và quyết tâm cao độ. 

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài 3: Cơ hội vàng để kinh tế tư nhân cất cánh

Những nội dung mang tính đột phá của Nghị quyết 68 được kỳ vọng sẽ tạo cú huých lớn cho kinh tế tư nhân (KTTN) phát triển mạnh mẽ. Sự đồng hành, hỗ trợ và kiến tạo của Nhà nước sẽ là "chất xúc tác" để khu vực KTTN phát huy tối đa tiềm năng, bứt phá, đóng góp to lớn hơn vào sự thịnh vượng và phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài 2: "Đêm trước" Nghị quyết 68

Trước khi Nghị quyết 68 ra đời, trên địa bàn tỉnh Cà Mau, hộ kinh doanh cá thể (KDCT), doanh nghiệp (DN) nhỏ/siêu nhỏ cùng lúc đứng trước 2 vấn đề tưởng chừng mâu thuẫn với nhau, đó là "chưa thể lớn" và "chưa chịu lớn", thế nhưng chúng lại liên quan chặt chẽ nhau, phản ánh thực tại bức tranh cộng đồng DN nhỏ/siêu nhỏ và các hộ KDCT của tỉnh.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng"

Trong giai đoạn “sắp xếp lại giang sơn”, Nghị quyết 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 (Nghị quyết 68) về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) được Bộ Chính trị ban hành. Với tinh thần xoá bỏ định kiến, tạo điều kiện đột phá, Nghị quyết 68 là sự khẳng định mạnh mẽ của Đảng về vai trò then chốt, động lực quan trọng hàng đầu của khu vực KTTN trong tiến trình phát triển đất nước. Ví như câu chuyện về Thánh Gióng trong truyền thuyết xưa, Nghị quyết 68 đã cung cấp đầy đủ điều kiện chín muồi để KTTN đủ sức chuyển hoá thành những thành tựu phát triển rực rỡ, kỳ diệu của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình.

Yêu Tổ quốc từ phía Trường sa

Trong những ngày cả nước hướng về kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, nhìn trên bản đồ phía biển Đông - nơi 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa máu thịt của Việt Nam sừng sững hiên ngang trước muôn trùng sóng gió và kẻ thù, lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc trong mỗi người sẽ cuồn cuộn dâng trào.

Hơn 30.000 đóa hoa bất tử!

Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ cứu nước, với lòng yêu quê hương và căm thù giặc sâu sắc, lớp lớp người con ưu tú của Cà Mau đã tham gia cách mạng, hăng hái chiến đấu, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh để giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc.

Phát huy sức trẻ sau tinh gọn bộ máy - Bài cuối: Tâm thế vững vàng, sẵn sàng thích ứng

Sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy, tổ chức Đoàn - Hội ở Cà Mau đối mặt với nhiều thách thức như: giảm nhân sự, tăng áp lực công việc; khan hiếm nguồn cán bộ kế cận; phong trào thanh niên một số nơi rơi vào trầm lắng... Nhận diện những thách thức này, cán bộ Đoàn - Hội "hiến kế" nhiều giải pháp đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với thực tiễn của địa phương để nâng cao năng lực đội ngũ và phát triển phong trào.

Tôi luyện bản lĩnh thời kỳ chuyển mình

Thời kỳ mới, công tác huấn luyện tân binh trong lực lượng vũ trang, đặc biệt là cảnh sát cơ động và phòng cháy, chữa cháy, được chú trọng đổi mới toàn diện, sát thực tế, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao.