ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 6-6-25 09:53:20
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bài học cuộc sống từ hồi ký “Gánh gánh… gồng gồng… ” của Xuân Phượng

Báo Cà Mau Hồi đầu tháng 1/2025, quyển hồi ký “Khắc đi… Khắc đến” của nữ đạo diễn 96 tuổi Nguyễn Thị Xuân Phượng được trao giải Mai Vàng ở hạng mục tác phẩm văn học. Ra mắt tháng 9/2024, chỉ sau 2 tháng phát hành, sách đã tái bản lần thứ 3 với tổng lượng in 4 ngàn bản.

Bìa quyển hồi ký “Gánh gánh... gồng gồng…” của Ðạo diễn Xuân Phượng.

Quyển sách dày hơn 200 trang, ghi lại quá trình tác giả gầy dựng phòng tranh Lotus Gallery (Quận 7, TP Hồ Chí Minh) từ hơn 30 năm trước và sự nỗ lực đưa tranh triển lãm ở nước ngoài nhằm tôn vinh và quảng bá văn hoá Việt Nam với thế giới. Quá trình ấy có lắm niềm vui, nhưng cũng đầy nhiêu khê, vất vả...

Tôi tò mò và biết thêm, bà còn có quyển hồi ký đầu tay với tựa đề “Gánh gánh... gồng gồng...”, xuất bản năm 2000, tái bản đến 12 lần với hơn 25 ngàn bản và được nhận 2 giải thưởng của Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh và Hội Nhà văn Việt Nam.

Quyển sách kể về cuộc đời người phụ nữ là bà, trải dài qua 2 cuộc kháng chiến trường kỳ, gắn liền với bao gian khổ, thăng trầm của đất nước.

Hơn 300 trang của quyển hồi ký “Gánh gánh... gồng gồng...” cứ “trói buộc” người đọc bởi ngồn ngộn chi tiết, sự kiện đầy cuốn hút.

Bà xuất thân từ hoàng tộc, cha là hiệu trưởng một trường tiểu học danh giá và duy nhất ở Ðà Lạt thời Pháp, được sống trong nhung lụa, được học trường Tây, giỏi tiếng Pháp. Nhưng cuộc đời cô bé Nguyễn Thị Xuân Phượng sinh năm 1929) lại rẽ sang một hướng khác với đầy gian truân, vất vả khi bản thân tự nguyện tham gia các tổ chức học sinh cứu quốc năm 1945.

Ngay lúc vừa tốt nghiệp tiểu học sang học trường Tây, bà đã có phản kháng mạnh mẽ khi cô bạn thân ngồi cạnh là người Pháp giẫm đạp lên lá cờ của đất nước.

Ý thức tự tôn dân tộc đã sớm hình thành trong bà, và chính điều đó thôi thúc cô gái 16 tuổi "xếp bút nghiên", trốn gia đình đi kháng chiến. “... Những học sinh vào tuổi 16, 17 chúng tôi sẵn sàng rời bỏ gia đình, đồng lòng muốn đuổi quân xâm lược. Nguyện vọng của chúng tôi bấy giờ chỉ có bảy chữ: Giành lại độc lập cho đất nước” (trang 29).

Ban đầu bà tham gia công tác tuyên truyền, tiếp tế, cùng các bạn trong nhóm tự biên tự diễn những vở kịch để giải thích về cuộc kháng chiến, kêu gọi đồng bào tham gia chống Pháp, tham gia đóng góp lương thực nuôi quân... Phải ngủ bờ ngủ bụi, ăn đói, uống thiếu... chịu cực khổ trăm bề. Dẫu thế, tuổi trẻ vẫn luôn tràn đầy nhiệt huyết, sẵn sàng cống hiến vì lý tưởng cứu nước.

Ðạo diễn Xuân Phượng (bên trái) gặp mẹ Suốt (người giữa), thời bà làm phóng viên chiến trường. (Ảnh chụp từ sách)

Ðạo diễn Xuân Phượng (bên trái) gặp mẹ Suốt (người giữa), thời bà làm phóng viên chiến trường. (Ảnh chụp từ sách)

Cho đến bây giờ bà vẫn không quên, khi mặt trận ở Huế vỡ, phải đi đường rừng từ Huế ra Nghệ An dài hơn 300 cây số, suốt nhiều đêm: “Cảm giác đau rợn người vẫn còn nguyên. Năm 1946-1947 đối với tôi là năm kỷ niệm những trận đau cùng cực của đôi chân trần đạp lên đá nhọn” (trang 38).

Ðó mới chỉ là “màn dạo đầu”, quá trình từ lúc tham gia kháng chiến đến giải phóng đất nước và trải qua thời bao cấp, còn biết bao nhiêu nghiệt ngã mà bà đã nếm trải.

“Mãi về sau, khi hoàn cảnh đã khá hơn, tôi cố gắng giữ được cách đối xử tử tế với những người gặp khó khăn, nghèo khổ” (trang 93).

Sau công tác tuyên truyền, bà làm quân y vụ; đầu quân vào Nha Nghiên cứu Kỹ thuật Bộ Quốc phòng của Giáo sư, Viện sĩ Trần Ðại Nghĩa, làm thuốc nổ; tham gia thực hiện trang tin của Bộ Tài chính; học y sĩ, rồi bác sĩ, công tác ở Uỷ ban Liên lạc Văn hoá với người nước ngoài, nhiệm vụ là chăm sóc sức khoẻ cho khách quốc tế đến thăm Việt Nam; phiên dịch cho phóng viên phương Tây vào chiến trường Việt Nam; trở thành phóng viên chiến trường, đạo diễn phim tài liệu... Chỉ cần điểm qua công việc cũng phần nào thấy được những gian nan mà bà phải đối mặt.

Nhưng những gì bà đã từng trải còn dữ dội gấp nhiều lần và thật khó có thể hình dung.

Một phụ nữ chuyển dạ đứa con đầu lòng giữa rừng sâu núi thẳm, được cáng đi bộ xuyên rừng bảy cây số, rồi sinh rớt trên đò - trong khi chồng thì lúc vợ chuyển dạ, vì nhiệm vụ phải đi ngay (chồng bà là sĩ quan pháo binh).

Cũng người phụ nữ ấy, sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ, chồng vì nhiệm vụ, một mình đùm túm hai con nhỏ, một địu trên lưng, một ngồi trong gánh, từ chiến khu lội đường rừng núi nhiều đêm ngày để về Thủ đô Hà Nội.

“Mình hết lòng yêu thương chăm sóc ai thì bù lại mình sẽ nhận được rất nhiều. Nên sống tử tế là một cách sống khôn ngoan nhất” (trang 114).

Và còn biết bao nghịch cảnh, chông gai khác. Thế nhưng bà vẫn kiên cường, đầy bản lĩnh và gánh gồng gia đình vượt qua tất cả.

Không chỉ có trở ngại, ở hồi ký còn đầy ắp những yêu thương, sự chia ngọt sẻ bùi trong khó khăn, thiếu thốn; ở đó còn có tình cảm bạn bè quốc tế thật hay, thật đẹp.

Hành trình đến với nghệ thuật của bà có hai điểm nhấn. Năm 1969, ở tuổi 40, đã có 3 con, khi đang là bác sĩ chăm sóc sức khoẻ cho khách quốc tế đến thăm, làm việc ở Việt Nam, một công việc lắm người mơ, thì bà rẽ ngang làm phóng viên chiến trường, theo đề xuất của đạo diễn Joris Ivens, một nhà điện ảnh cách mạng nổi tiếng thế giới. Ông đã nhìn thấy tố chất của bà qua chuyến công tác vào tuyến lửa Vĩnh Linh làm bộ phim nổi tiếng “Vĩ tuyến 17 - chiến tranh Nhân dân” mà bà là người đi theo làm phiên dịch.

Và ở lĩnh vực mới này, bà đã ghi đậm dấu ấn với vai trò đạo diễn cho nhiều phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế.

Bà Xuân Phượng trao đổi kế hoạch đi vào tuyến lửa Vĩnh Linh làm phim tài liệu “Vĩ tuyến 17 - chiến tranh Nhân dân” cùng Ðạo diễn Joris Ivens, khi bà làm phiên dịch. (Ảnh chụp từ sách)

Bà Xuân Phượng trao đổi kế hoạch đi vào tuyến lửa Vĩnh Linh làm phim tài liệu “Vĩ tuyến 17 - chiến tranh Nhân dân” cùng Ðạo diễn Joris Ivens, khi bà làm phiên dịch. (Ảnh chụp từ sách)

Chưa dừng lại ở đó, năm 1991, 7 năm sau về hưu, dù đã ở tuổi 62, bà còn có một quyết định táo bạo là mở phòng tranh Lotus Gallery, tại TP Hồ Chí Minh (một trong những phòng tranh tư nhân đầu tiên bấy giờ), đồng thời mang tranh đi triển lãm nước ngoài.

Từ đấy lại tiếp tục một quãng đời đầy sôi động, thú vị, những niềm hạnh phúc mới vì đã nâng niu, làm toả sáng nhiều tài năng nghệ thuật bị cuộc đời vùi lấp. Và thế giới lại biết thêm về Việt Nam, thán phục hơn với những giá trị văn hoá tinh thần (chứ không chỉ có vết thương chiến tranh với cái nhìn thương hại).

“Năm tôi mười lăm tuổi, bà ngoại dặn: “Con ơi, ở với người xấu rất dễ xử, khó nhất là đối xử sao cho đầy đủ với người tốt”. Lời khuyên khôn ngoan ấy theo tôi suốt đời” (trang 175).

Chia sẻ với truyền thông, bà từng bảo, cuộc sống không chỉ “nhìn” mà còn phải “thấy”. Nhìn một bông hoa đẹp, thấy được đằng sau nó là công người chăm sóc; nhìn một thành quả, thấy được đằng sau nó là sự nỗ lực không ngừng... Ðó chính là cái nhìn bao dung, sâu sắc và thấu đáo của con người từng trải và là bài học cho nhiều người.

Bà cũng từng khuyên: “Ðừng nản chí vì khó khăn, đừng tự giới hạn mình”. Và đó cũng chính là con người của Ðạo diễn Nguyễn Thị Xuân Phượng. Bước đường đời của bà là bước đường của con người không nản chí và không tự ti, tự giới hạn.

Với lối viết nhấn nhá, theo mạch cảm xúc, câu chuyện cuộc đời bà có sức lôi cuốn lạ thường. Ðọc hồi ký "Gánh gánh... gồng gồng...", không chỉ hiểu thêm về lịch sử, có được những bài học cuộc sống vô giá mà còn được truyền năng lượng tích cực, giúp ta có thêm nghị lực và bản lĩnh trước cuộc đời.

Gần thế kỷ đời người, bà còn rất nhiều điều muốn viết, muốn sẻ chia. Cầu chúc bà thật khoẻ mạnh và tiếp tục cho ra đời những sản phẩm tinh thần đầy giá trị./.

 

Trang Thăm

 

"Chiếc nôi chung" thương nhớ, tự hào - Bài cuối: “Quê chúng ta Cà Mau”

Những ngày này, tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu đang tập trung khẩn trương cho công tác chuẩn bị hợp nhất thành tỉnh Cà Mau mới - một phiên bản được nâng cấp toàn diện, đầy kỳ vọng của Minh Hải xưa. Cà Mau - Bạc Liêu lại chung một mái nhà, một chiếc nôi với trọn vẹn những nghĩa tình, những khát vọng phát triển lớn lao, với sức vóc mạnh mẽ, thế và lực vững vàng ở địa đầu cực Nam Tổ quốc.

"Chiếc nôi chung" thương nhớ, tự hào

Khi chủ trương hợp nhất tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu thành tỉnh Cà Mau được công bố và thông tin rộng rãi, có một điều kỳ lạ đã diễn ra. Không có sự nuối tiếc, không hề âu lo, mà trái lại, đó là sự hào hứng, phấn chấn và đồng thuận cao độ của Nhân dân 2 tỉnh. Vậy là Cà Mau - Bạc Liêu lại về chung một mái nhà, chung một khát vọng, cộng hưởng và nhân lên sức mạnh, niềm tin để cùng nhau xây dựng vùng đất phía địa đầu cực Nam Tổ quốc bừng sáng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

"Chiếc nôi chung" thương nhớ, tự hào - Bài 2: Chặng đường 20 năm lịch sử

Tỉnh Minh Hải tồn tại trong 20 năm, từ 1976 đến hết năm 1996, vượt qua nhiều thách thức, trở ngại, kể cả những thời khắc hết sức gian khó để hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh lịch sử với những thành tựu hết sức to lớn, đặt nền tảng vững chắc cho đà ổn định, phát triển của 2 tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu, về sau này.

Cà Mau - Ðịa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài cuối: Bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc

Cà Mau hôm nay đổi mới, phát triển từng ngày. Những cán bộ lão thành cách mạng, những bậc cao niên ở Cà Mau mà chúng tôi có dịp gặp, đã trải qua bom đạn chiến tranh, trải qua những ngày tháng Cà Mau còn đầy khó khăn, tất cả đều nói rằng, Cà Mau mình bây giờ đã phát triển nhiều lắm, đời sống Nhân dân đã sung túc hơn trước bội phần. Từ vùng đất hoang vu, nê địa; từ những đau thương, mất mát lớn lao trong kháng chiến; đến nay, Cà Mau đã vươn mình đi lên bằng sức vóc mới, thế và lực mới, để chặng đường phát triển tương lai sẽ làm bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 4: Vùng đất của những sản vật vang danh

Dù lên rừng hay xuống biển, Cà Mau đều sẵn có những đặc sản trứ danh. Nếu chỉ nhắc đến đại khái, nhiều người sẽ chưa thoả dạ hoặc lòng còn hoài nghi, thắc mắc. Sự trù phú của thiên nhiên hoà quyện với quá trình lao động siêng năng, bền bĩ, đúc kết kinh nghiệm và sự sáng tạo tài hoa của lớp lớp con người Cà Mau đã kết tụ nên giá trị và sức sống lâu bền của những sản vật đặc trưng ở vùng đất mới.

Lưu Hữu Phước – Nhạc sĩ tài danh đất Tây Đô

Hai ba thế hệ người Việt Nam hát những ca khúc của nhạc sĩ tài danh Lưu Hữu Phước. Không có cuộc đời nào, tâm hồn nào trên đất nước Việt Nam thân yêu thế kỷ vệ quốc anh hùng mà không được Lưu Hữu Phước giục giã.

Ngày giải phóng Cà Mau

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 3: Bức tranh văn hoá đa sắc

Dù ở vùng đất mới, gốc gác khác biệt, song khi về tới Cà Mau, thế hệ tiền nhân đã sớm ý thức về nguồn cội, quần tụ và cố kết với nhau bằng sợi chỉ đỏ chảy xuyên suốt của nền văn hoá dân tộc Việt Nam bốn ngàn năm: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 2: Con người Cà Mau - Nét duyên xứ sở

Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng: “Con người là chủ thể văn hoá, cách ứng xử của con người với chính mình, với thiên nhiên và các mối quan hệ xã hội định hình nên đặc điểm và tính cách của nền văn hoá ấy”. Ở vùng đất mới Cà Mau, nếu không nói về con người Cà Mau, tính cách và cốt cách của con người Cà Mau thì quả thật là một điều thiếu sót lớn. Hồn cốt quê hương, khí phách của ông cha là nơi hậu thế soi chiếu vào đó để nhận diện được chính mình và khơi mở những chặng đường tương lai của mảnh đất này.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc

Khi Báo Cà Mau đăng loạt ghi chép pha chút hơi hướng khảo cứu này, tỉnh Cà Mau đang hừng hực khí thế, với thế và lực mới vững vàng hoà vào dòng chảy thời đại cùng cả dân tộc, đất nước Việt Nam tiến bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển phồn thịnh, giàu mạnh, hạnh phúc.