ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 19-4-25 09:25:04
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bài học cuộc sống từ hồi ký “Gánh gánh… gồng gồng… ” của Xuân Phượng

Báo Cà Mau Hồi đầu tháng 1/2025, quyển hồi ký “Khắc đi… Khắc đến” của nữ đạo diễn 96 tuổi Nguyễn Thị Xuân Phượng được trao giải Mai Vàng ở hạng mục tác phẩm văn học. Ra mắt tháng 9/2024, chỉ sau 2 tháng phát hành, sách đã tái bản lần thứ 3 với tổng lượng in 4 ngàn bản.

Bìa quyển hồi ký “Gánh gánh... gồng gồng…” của Ðạo diễn Xuân Phượng.

Quyển sách dày hơn 200 trang, ghi lại quá trình tác giả gầy dựng phòng tranh Lotus Gallery (Quận 7, TP Hồ Chí Minh) từ hơn 30 năm trước và sự nỗ lực đưa tranh triển lãm ở nước ngoài nhằm tôn vinh và quảng bá văn hoá Việt Nam với thế giới. Quá trình ấy có lắm niềm vui, nhưng cũng đầy nhiêu khê, vất vả...

Tôi tò mò và biết thêm, bà còn có quyển hồi ký đầu tay với tựa đề “Gánh gánh... gồng gồng...”, xuất bản năm 2000, tái bản đến 12 lần với hơn 25 ngàn bản và được nhận 2 giải thưởng của Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh và Hội Nhà văn Việt Nam.

Quyển sách kể về cuộc đời người phụ nữ là bà, trải dài qua 2 cuộc kháng chiến trường kỳ, gắn liền với bao gian khổ, thăng trầm của đất nước.

Hơn 300 trang của quyển hồi ký “Gánh gánh... gồng gồng...” cứ “trói buộc” người đọc bởi ngồn ngộn chi tiết, sự kiện đầy cuốn hút.

Bà xuất thân từ hoàng tộc, cha là hiệu trưởng một trường tiểu học danh giá và duy nhất ở Ðà Lạt thời Pháp, được sống trong nhung lụa, được học trường Tây, giỏi tiếng Pháp. Nhưng cuộc đời cô bé Nguyễn Thị Xuân Phượng sinh năm 1929) lại rẽ sang một hướng khác với đầy gian truân, vất vả khi bản thân tự nguyện tham gia các tổ chức học sinh cứu quốc năm 1945.

Ngay lúc vừa tốt nghiệp tiểu học sang học trường Tây, bà đã có phản kháng mạnh mẽ khi cô bạn thân ngồi cạnh là người Pháp giẫm đạp lên lá cờ của đất nước.

Ý thức tự tôn dân tộc đã sớm hình thành trong bà, và chính điều đó thôi thúc cô gái 16 tuổi "xếp bút nghiên", trốn gia đình đi kháng chiến. “... Những học sinh vào tuổi 16, 17 chúng tôi sẵn sàng rời bỏ gia đình, đồng lòng muốn đuổi quân xâm lược. Nguyện vọng của chúng tôi bấy giờ chỉ có bảy chữ: Giành lại độc lập cho đất nước” (trang 29).

Ban đầu bà tham gia công tác tuyên truyền, tiếp tế, cùng các bạn trong nhóm tự biên tự diễn những vở kịch để giải thích về cuộc kháng chiến, kêu gọi đồng bào tham gia chống Pháp, tham gia đóng góp lương thực nuôi quân... Phải ngủ bờ ngủ bụi, ăn đói, uống thiếu... chịu cực khổ trăm bề. Dẫu thế, tuổi trẻ vẫn luôn tràn đầy nhiệt huyết, sẵn sàng cống hiến vì lý tưởng cứu nước.

Ðạo diễn Xuân Phượng (bên trái) gặp mẹ Suốt (người giữa), thời bà làm phóng viên chiến trường. (Ảnh chụp từ sách)

Ðạo diễn Xuân Phượng (bên trái) gặp mẹ Suốt (người giữa), thời bà làm phóng viên chiến trường. (Ảnh chụp từ sách)

Cho đến bây giờ bà vẫn không quên, khi mặt trận ở Huế vỡ, phải đi đường rừng từ Huế ra Nghệ An dài hơn 300 cây số, suốt nhiều đêm: “Cảm giác đau rợn người vẫn còn nguyên. Năm 1946-1947 đối với tôi là năm kỷ niệm những trận đau cùng cực của đôi chân trần đạp lên đá nhọn” (trang 38).

Ðó mới chỉ là “màn dạo đầu”, quá trình từ lúc tham gia kháng chiến đến giải phóng đất nước và trải qua thời bao cấp, còn biết bao nhiêu nghiệt ngã mà bà đã nếm trải.

“Mãi về sau, khi hoàn cảnh đã khá hơn, tôi cố gắng giữ được cách đối xử tử tế với những người gặp khó khăn, nghèo khổ” (trang 93).

Sau công tác tuyên truyền, bà làm quân y vụ; đầu quân vào Nha Nghiên cứu Kỹ thuật Bộ Quốc phòng của Giáo sư, Viện sĩ Trần Ðại Nghĩa, làm thuốc nổ; tham gia thực hiện trang tin của Bộ Tài chính; học y sĩ, rồi bác sĩ, công tác ở Uỷ ban Liên lạc Văn hoá với người nước ngoài, nhiệm vụ là chăm sóc sức khoẻ cho khách quốc tế đến thăm Việt Nam; phiên dịch cho phóng viên phương Tây vào chiến trường Việt Nam; trở thành phóng viên chiến trường, đạo diễn phim tài liệu... Chỉ cần điểm qua công việc cũng phần nào thấy được những gian nan mà bà phải đối mặt.

Nhưng những gì bà đã từng trải còn dữ dội gấp nhiều lần và thật khó có thể hình dung.

Một phụ nữ chuyển dạ đứa con đầu lòng giữa rừng sâu núi thẳm, được cáng đi bộ xuyên rừng bảy cây số, rồi sinh rớt trên đò - trong khi chồng thì lúc vợ chuyển dạ, vì nhiệm vụ phải đi ngay (chồng bà là sĩ quan pháo binh).

Cũng người phụ nữ ấy, sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ, chồng vì nhiệm vụ, một mình đùm túm hai con nhỏ, một địu trên lưng, một ngồi trong gánh, từ chiến khu lội đường rừng núi nhiều đêm ngày để về Thủ đô Hà Nội.

“Mình hết lòng yêu thương chăm sóc ai thì bù lại mình sẽ nhận được rất nhiều. Nên sống tử tế là một cách sống khôn ngoan nhất” (trang 114).

Và còn biết bao nghịch cảnh, chông gai khác. Thế nhưng bà vẫn kiên cường, đầy bản lĩnh và gánh gồng gia đình vượt qua tất cả.

Không chỉ có trở ngại, ở hồi ký còn đầy ắp những yêu thương, sự chia ngọt sẻ bùi trong khó khăn, thiếu thốn; ở đó còn có tình cảm bạn bè quốc tế thật hay, thật đẹp.

Hành trình đến với nghệ thuật của bà có hai điểm nhấn. Năm 1969, ở tuổi 40, đã có 3 con, khi đang là bác sĩ chăm sóc sức khoẻ cho khách quốc tế đến thăm, làm việc ở Việt Nam, một công việc lắm người mơ, thì bà rẽ ngang làm phóng viên chiến trường, theo đề xuất của đạo diễn Joris Ivens, một nhà điện ảnh cách mạng nổi tiếng thế giới. Ông đã nhìn thấy tố chất của bà qua chuyến công tác vào tuyến lửa Vĩnh Linh làm bộ phim nổi tiếng “Vĩ tuyến 17 - chiến tranh Nhân dân” mà bà là người đi theo làm phiên dịch.

Và ở lĩnh vực mới này, bà đã ghi đậm dấu ấn với vai trò đạo diễn cho nhiều phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế.

Bà Xuân Phượng trao đổi kế hoạch đi vào tuyến lửa Vĩnh Linh làm phim tài liệu “Vĩ tuyến 17 - chiến tranh Nhân dân” cùng Ðạo diễn Joris Ivens, khi bà làm phiên dịch. (Ảnh chụp từ sách)

Bà Xuân Phượng trao đổi kế hoạch đi vào tuyến lửa Vĩnh Linh làm phim tài liệu “Vĩ tuyến 17 - chiến tranh Nhân dân” cùng Ðạo diễn Joris Ivens, khi bà làm phiên dịch. (Ảnh chụp từ sách)

Chưa dừng lại ở đó, năm 1991, 7 năm sau về hưu, dù đã ở tuổi 62, bà còn có một quyết định táo bạo là mở phòng tranh Lotus Gallery, tại TP Hồ Chí Minh (một trong những phòng tranh tư nhân đầu tiên bấy giờ), đồng thời mang tranh đi triển lãm nước ngoài.

Từ đấy lại tiếp tục một quãng đời đầy sôi động, thú vị, những niềm hạnh phúc mới vì đã nâng niu, làm toả sáng nhiều tài năng nghệ thuật bị cuộc đời vùi lấp. Và thế giới lại biết thêm về Việt Nam, thán phục hơn với những giá trị văn hoá tinh thần (chứ không chỉ có vết thương chiến tranh với cái nhìn thương hại).

“Năm tôi mười lăm tuổi, bà ngoại dặn: “Con ơi, ở với người xấu rất dễ xử, khó nhất là đối xử sao cho đầy đủ với người tốt”. Lời khuyên khôn ngoan ấy theo tôi suốt đời” (trang 175).

Chia sẻ với truyền thông, bà từng bảo, cuộc sống không chỉ “nhìn” mà còn phải “thấy”. Nhìn một bông hoa đẹp, thấy được đằng sau nó là công người chăm sóc; nhìn một thành quả, thấy được đằng sau nó là sự nỗ lực không ngừng... Ðó chính là cái nhìn bao dung, sâu sắc và thấu đáo của con người từng trải và là bài học cho nhiều người.

Bà cũng từng khuyên: “Ðừng nản chí vì khó khăn, đừng tự giới hạn mình”. Và đó cũng chính là con người của Ðạo diễn Nguyễn Thị Xuân Phượng. Bước đường đời của bà là bước đường của con người không nản chí và không tự ti, tự giới hạn.

Với lối viết nhấn nhá, theo mạch cảm xúc, câu chuyện cuộc đời bà có sức lôi cuốn lạ thường. Ðọc hồi ký "Gánh gánh... gồng gồng...", không chỉ hiểu thêm về lịch sử, có được những bài học cuộc sống vô giá mà còn được truyền năng lượng tích cực, giúp ta có thêm nghị lực và bản lĩnh trước cuộc đời.

Gần thế kỷ đời người, bà còn rất nhiều điều muốn viết, muốn sẻ chia. Cầu chúc bà thật khoẻ mạnh và tiếp tục cho ra đời những sản phẩm tinh thần đầy giá trị./.

 

Trang Thăm

 

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài 2: Bước chuyển mình của đô thị hoá nông thôn

Khác với sự trỗi dậy mạnh mẽ của các đô thị động lực, như TP Cà Mau, Sông Ðốc và Năm Căn, những làng quê, nơi mà quá trình đô thị hoá đang diễn ra một cách lặng lẽ lại trở thành nơi lý tưởng, đáng sống, ước mơ của nhiều người. Cà Mau, từ một bức tranh tưởng chừng đơn điệu, với ruộng lúa, ao tôm, cánh đồng hoa màu và những con rạch hiền hoà, nay khoác lên mình diện mạo mới, hiện đại hơn, thuận tiện hơn, nhưng vẫn giữ được bản sắc miền Tây sông nước.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài 3: Giải mã “điểm nghẽn” để khơi thông tiềm năng

Tốc độ đô thị hoá của Cà Mau tăng trung bình 1,3%/năm, phản ánh sức hút và tiềm năng nội tại. Tuy nhiên, con số này vẫn chưa tương xứng với tiềm lực vốn có và còn cách biệt so với khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Quá trình đô thị hoá tại Cà Mau vẫn đang đối diện với những nút thắt cần tháo gỡ.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh

Tỉnh Cà Mau đang kiến tạo một nền tảng vững chắc để đô thị hoá trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Ðến cuối năm 2024, tỷ lệ đô thị hoá của tỉnh đạt 33,04%, với 22 đô thị, cao hơn mức trung bình của đồng bằng sông Cửu Long (32,0%) và vượt một số tỉnh lân cận, như Vĩnh Long (28,7%), Hậu Giang (30,5%)... Với TP Cà Mau, Năm Căn và Sông Ðốc làm tam giác động lực, tỉnh không chỉ mở rộng không gian đô thị mà còn tạo sức bật kinh tế toàn diện. Không chạy theo đô thị hoá ồ ạt, tỉnh tập trung xây dựng nền tảng hạ tầng vững chắc, phát huy lợi thế kinh tế biển, logistics và dịch vụ thương mại để trở thành điểm sáng mới của vùng Tây Nam Bộ.

Khởi nghiệp “xanh” - Xu hướng phát triển bền vững - Bài cuối: Khơi thông dòng chảy

Khởi nghiệp dựa vào tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng tài nguyên bản địa của địa phương là một lợi thế. Tuy nhiên, nó cũng có nhiều thách thức cho hoạt động khởi nghiệp nói chung và khởi nghiệp “xanh” nói riêng của tỉnh. Ðể nâng tầm khởi nghiệp “xanh”, Cà Mau đang cần những chính sách hỗ trợ từ Chính phủ. Ðịa phương cũng cần chú trọng hơn đến phát triển kinh tế bền vững và hỗ trợ các mô hình khởi nghiệp “xanh”, cũng như các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, đào tạo, phát triển cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Khởi nghiệp “xanh” - Xu hướng phát triển bền vững - Bài 2: "Ghi điểm" trên "sân nhà"

Khởi nghiệp “xanh” tại Cà Mau mang đến động lực, truyền cảm hứng từ những câu chuyện thực tế của những bạn trẻ đầy nhiệt huyết, mạnh dạn tận dụng sân nhà để phát huy giá trị sản phẩm kinh doanh, gợi mở nhiều cơ hội trong tiến trình khởi nghiệp.

Khởi nghiệp “xanh” - Xu hướng phát triển bền vững

Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đã trở thành xu thế chung của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là chủ trương lớn của Ðảng. Nghị quyết 52/NQ-TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị đã xác định rõ vai trò của khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, trong đó doanh nghiệp là trọng tâm của quá trình đổi mới sáng tạo quốc gia.

Hướng tới chính quyền số toàn diện - Bài cuối: Xây dựng nền hành chính kiến tạo, phục vụ

Nếu chuyển đổi số (CÐS) trong thủ tục hành chính (TTHC) là bước đột phá giúp cắt giảm phiền hà, tiết kiệm thời gian cho người dân và doanh nghiệp, thì xây dựng chính quyền thông minh lại mang tầm vóc lớn hơn. Ðó không chỉ là việc đưa công nghệ vào bộ máy quản lý Nhà nước, mà còn là một cuộc chuyển đổi toàn diện về tư duy điều hành, phương thức hoạt động và tinh thần phục vụ. Không còn cảnh văn phòng hành chính đầy ắp hồ sơ, giấy tờ, chính quyền số hôm nay đang định hình một mô hình làm việc mới: liên thông, minh bạch, gần gũi và lấy sự hài lòng của người dân làm trung tâm.

Hướng tới chính quyền số toàn diện

Hai năm liền (2023-2024), Cà Mau dẫn đầu cả nước về chỉ số phục vụ người dân và doanh nghiệp, đây là dấu ấn nổi bật của tỉnh trong công tác cải cách hành chính (CCHC). Ðể có được thành tựu này, tỉnh không chỉ đơn giản hoá thủ tục mà còn đổi mới mạnh mẽ phương thức phục vụ. Hệ thống một cửa liên thông được triển khai đồng bộ từ cấp tỉnh đến cấp xã, giúp rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, nâng cao tính minh bạch, hiệu quả, sự hài lòng trong dân.

Tự hào vùng đất Tây Nam - Bài cuối: Biển - Dòng chảy phồn vinh

Ðịa bàn biên giới biển toàn vùng Tây Nam trải dài hơn 700 km, chiếm 1/5 tổng chiều dài bờ biển của cả nước, không chỉ là tuyến phòng thủ chiến lược mà còn là nguồn sống của hàng triệu ngư dân. Với hệ sinh thái phong phú, vùng biển này mang trong mình tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế biển, đóng góp quan trọng vào công cuộc dựng xây đất nước.

Tự hào vùng đất Tây Nam - Bài 3: Hồi sinh Ba Chúc

Cách nay 50 năm, trong khi các địa phương trong cả nước đang bắt tay kiến thiết quê hương sau đại thắng mùa Xuân 1975 thì Nhân dân Ba Chúc lại mang thêm trên mình những vết thương của nạn thảm sát diệt chủng Pol Pot. Nếu so sánh xuất phát điểm của vùng đất thanh bình vươn lên sau chiến tranh thì Ba Chúc khởi điểm sau các vùng đất khác 10 năm, với nền tảng ban đầu: đất đai cằn cỗi, nhà cửa xơ xác, cuộc sống của người dân bấp bênh giữa đói nghèo và ký ức đau thương. Trở lại Ba Chúc hôm nay là thị trấn sầm uất của huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.