ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 4-3-25 15:41:00
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bài học cuộc sống từ hồi ký “Gánh gánh… gồng gồng… ” của Xuân Phượng

Báo Cà Mau Hồi đầu tháng 1/2025, quyển hồi ký “Khắc đi… Khắc đến” của nữ đạo diễn 96 tuổi Nguyễn Thị Xuân Phượng được trao giải Mai Vàng ở hạng mục tác phẩm văn học. Ra mắt tháng 9/2024, chỉ sau 2 tháng phát hành, sách đã tái bản lần thứ 3 với tổng lượng in 4 ngàn bản.

Bìa quyển hồi ký “Gánh gánh... gồng gồng…” của Ðạo diễn Xuân Phượng.

Quyển sách dày hơn 200 trang, ghi lại quá trình tác giả gầy dựng phòng tranh Lotus Gallery (Quận 7, TP Hồ Chí Minh) từ hơn 30 năm trước và sự nỗ lực đưa tranh triển lãm ở nước ngoài nhằm tôn vinh và quảng bá văn hoá Việt Nam với thế giới. Quá trình ấy có lắm niềm vui, nhưng cũng đầy nhiêu khê, vất vả...

Tôi tò mò và biết thêm, bà còn có quyển hồi ký đầu tay với tựa đề “Gánh gánh... gồng gồng...”, xuất bản năm 2000, tái bản đến 12 lần với hơn 25 ngàn bản và được nhận 2 giải thưởng của Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh và Hội Nhà văn Việt Nam.

Quyển sách kể về cuộc đời người phụ nữ là bà, trải dài qua 2 cuộc kháng chiến trường kỳ, gắn liền với bao gian khổ, thăng trầm của đất nước.

Hơn 300 trang của quyển hồi ký “Gánh gánh... gồng gồng...” cứ “trói buộc” người đọc bởi ngồn ngộn chi tiết, sự kiện đầy cuốn hút.

Bà xuất thân từ hoàng tộc, cha là hiệu trưởng một trường tiểu học danh giá và duy nhất ở Ðà Lạt thời Pháp, được sống trong nhung lụa, được học trường Tây, giỏi tiếng Pháp. Nhưng cuộc đời cô bé Nguyễn Thị Xuân Phượng sinh năm 1929) lại rẽ sang một hướng khác với đầy gian truân, vất vả khi bản thân tự nguyện tham gia các tổ chức học sinh cứu quốc năm 1945.

Ngay lúc vừa tốt nghiệp tiểu học sang học trường Tây, bà đã có phản kháng mạnh mẽ khi cô bạn thân ngồi cạnh là người Pháp giẫm đạp lên lá cờ của đất nước.

Ý thức tự tôn dân tộc đã sớm hình thành trong bà, và chính điều đó thôi thúc cô gái 16 tuổi "xếp bút nghiên", trốn gia đình đi kháng chiến. “... Những học sinh vào tuổi 16, 17 chúng tôi sẵn sàng rời bỏ gia đình, đồng lòng muốn đuổi quân xâm lược. Nguyện vọng của chúng tôi bấy giờ chỉ có bảy chữ: Giành lại độc lập cho đất nước” (trang 29).

Ban đầu bà tham gia công tác tuyên truyền, tiếp tế, cùng các bạn trong nhóm tự biên tự diễn những vở kịch để giải thích về cuộc kháng chiến, kêu gọi đồng bào tham gia chống Pháp, tham gia đóng góp lương thực nuôi quân... Phải ngủ bờ ngủ bụi, ăn đói, uống thiếu... chịu cực khổ trăm bề. Dẫu thế, tuổi trẻ vẫn luôn tràn đầy nhiệt huyết, sẵn sàng cống hiến vì lý tưởng cứu nước.

Ðạo diễn Xuân Phượng (bên trái) gặp mẹ Suốt (người giữa), thời bà làm phóng viên chiến trường. (Ảnh chụp từ sách)

Ðạo diễn Xuân Phượng (bên trái) gặp mẹ Suốt (người giữa), thời bà làm phóng viên chiến trường. (Ảnh chụp từ sách)

Cho đến bây giờ bà vẫn không quên, khi mặt trận ở Huế vỡ, phải đi đường rừng từ Huế ra Nghệ An dài hơn 300 cây số, suốt nhiều đêm: “Cảm giác đau rợn người vẫn còn nguyên. Năm 1946-1947 đối với tôi là năm kỷ niệm những trận đau cùng cực của đôi chân trần đạp lên đá nhọn” (trang 38).

Ðó mới chỉ là “màn dạo đầu”, quá trình từ lúc tham gia kháng chiến đến giải phóng đất nước và trải qua thời bao cấp, còn biết bao nhiêu nghiệt ngã mà bà đã nếm trải.

“Mãi về sau, khi hoàn cảnh đã khá hơn, tôi cố gắng giữ được cách đối xử tử tế với những người gặp khó khăn, nghèo khổ” (trang 93).

Sau công tác tuyên truyền, bà làm quân y vụ; đầu quân vào Nha Nghiên cứu Kỹ thuật Bộ Quốc phòng của Giáo sư, Viện sĩ Trần Ðại Nghĩa, làm thuốc nổ; tham gia thực hiện trang tin của Bộ Tài chính; học y sĩ, rồi bác sĩ, công tác ở Uỷ ban Liên lạc Văn hoá với người nước ngoài, nhiệm vụ là chăm sóc sức khoẻ cho khách quốc tế đến thăm Việt Nam; phiên dịch cho phóng viên phương Tây vào chiến trường Việt Nam; trở thành phóng viên chiến trường, đạo diễn phim tài liệu... Chỉ cần điểm qua công việc cũng phần nào thấy được những gian nan mà bà phải đối mặt.

Nhưng những gì bà đã từng trải còn dữ dội gấp nhiều lần và thật khó có thể hình dung.

Một phụ nữ chuyển dạ đứa con đầu lòng giữa rừng sâu núi thẳm, được cáng đi bộ xuyên rừng bảy cây số, rồi sinh rớt trên đò - trong khi chồng thì lúc vợ chuyển dạ, vì nhiệm vụ phải đi ngay (chồng bà là sĩ quan pháo binh).

Cũng người phụ nữ ấy, sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ, chồng vì nhiệm vụ, một mình đùm túm hai con nhỏ, một địu trên lưng, một ngồi trong gánh, từ chiến khu lội đường rừng núi nhiều đêm ngày để về Thủ đô Hà Nội.

“Mình hết lòng yêu thương chăm sóc ai thì bù lại mình sẽ nhận được rất nhiều. Nên sống tử tế là một cách sống khôn ngoan nhất” (trang 114).

Và còn biết bao nghịch cảnh, chông gai khác. Thế nhưng bà vẫn kiên cường, đầy bản lĩnh và gánh gồng gia đình vượt qua tất cả.

Không chỉ có trở ngại, ở hồi ký còn đầy ắp những yêu thương, sự chia ngọt sẻ bùi trong khó khăn, thiếu thốn; ở đó còn có tình cảm bạn bè quốc tế thật hay, thật đẹp.

Hành trình đến với nghệ thuật của bà có hai điểm nhấn. Năm 1969, ở tuổi 40, đã có 3 con, khi đang là bác sĩ chăm sóc sức khoẻ cho khách quốc tế đến thăm, làm việc ở Việt Nam, một công việc lắm người mơ, thì bà rẽ ngang làm phóng viên chiến trường, theo đề xuất của đạo diễn Joris Ivens, một nhà điện ảnh cách mạng nổi tiếng thế giới. Ông đã nhìn thấy tố chất của bà qua chuyến công tác vào tuyến lửa Vĩnh Linh làm bộ phim nổi tiếng “Vĩ tuyến 17 - chiến tranh Nhân dân” mà bà là người đi theo làm phiên dịch.

Và ở lĩnh vực mới này, bà đã ghi đậm dấu ấn với vai trò đạo diễn cho nhiều phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế.

Bà Xuân Phượng trao đổi kế hoạch đi vào tuyến lửa Vĩnh Linh làm phim tài liệu “Vĩ tuyến 17 - chiến tranh Nhân dân” cùng Ðạo diễn Joris Ivens, khi bà làm phiên dịch. (Ảnh chụp từ sách)

Bà Xuân Phượng trao đổi kế hoạch đi vào tuyến lửa Vĩnh Linh làm phim tài liệu “Vĩ tuyến 17 - chiến tranh Nhân dân” cùng Ðạo diễn Joris Ivens, khi bà làm phiên dịch. (Ảnh chụp từ sách)

Chưa dừng lại ở đó, năm 1991, 7 năm sau về hưu, dù đã ở tuổi 62, bà còn có một quyết định táo bạo là mở phòng tranh Lotus Gallery, tại TP Hồ Chí Minh (một trong những phòng tranh tư nhân đầu tiên bấy giờ), đồng thời mang tranh đi triển lãm nước ngoài.

Từ đấy lại tiếp tục một quãng đời đầy sôi động, thú vị, những niềm hạnh phúc mới vì đã nâng niu, làm toả sáng nhiều tài năng nghệ thuật bị cuộc đời vùi lấp. Và thế giới lại biết thêm về Việt Nam, thán phục hơn với những giá trị văn hoá tinh thần (chứ không chỉ có vết thương chiến tranh với cái nhìn thương hại).

“Năm tôi mười lăm tuổi, bà ngoại dặn: “Con ơi, ở với người xấu rất dễ xử, khó nhất là đối xử sao cho đầy đủ với người tốt”. Lời khuyên khôn ngoan ấy theo tôi suốt đời” (trang 175).

Chia sẻ với truyền thông, bà từng bảo, cuộc sống không chỉ “nhìn” mà còn phải “thấy”. Nhìn một bông hoa đẹp, thấy được đằng sau nó là công người chăm sóc; nhìn một thành quả, thấy được đằng sau nó là sự nỗ lực không ngừng... Ðó chính là cái nhìn bao dung, sâu sắc và thấu đáo của con người từng trải và là bài học cho nhiều người.

Bà cũng từng khuyên: “Ðừng nản chí vì khó khăn, đừng tự giới hạn mình”. Và đó cũng chính là con người của Ðạo diễn Nguyễn Thị Xuân Phượng. Bước đường đời của bà là bước đường của con người không nản chí và không tự ti, tự giới hạn.

Với lối viết nhấn nhá, theo mạch cảm xúc, câu chuyện cuộc đời bà có sức lôi cuốn lạ thường. Ðọc hồi ký "Gánh gánh... gồng gồng...", không chỉ hiểu thêm về lịch sử, có được những bài học cuộc sống vô giá mà còn được truyền năng lượng tích cực, giúp ta có thêm nghị lực và bản lĩnh trước cuộc đời.

Gần thế kỷ đời người, bà còn rất nhiều điều muốn viết, muốn sẻ chia. Cầu chúc bà thật khoẻ mạnh và tiếp tục cho ra đời những sản phẩm tinh thần đầy giá trị./.

 

Trang Thăm

 

Bài học cuộc sống từ hồi ký “Gánh gánh… gồng gồng… ” của Xuân Phượng

Hồi đầu tháng 1/2025, quyển hồi ký “Khắc đi… Khắc đến” của nữ đạo diễn 96 tuổi Nguyễn Thị Xuân Phượng được trao giải Mai Vàng ở hạng mục tác phẩm văn học. Ra mắt tháng 9/2024, chỉ sau 2 tháng phát hành, sách đã tái bản lần thứ 3 với tổng lượng in 4 ngàn bản.

Vẫn âm ỉ hòn than U Minh

Cuối năm 2024, tôi có một chuyến về nguồn nhiều mong mỏi. Cái nơi đến chứa chan, ấp ủ nhiều kỷ niệm, lẫn những ray rứt khôn nguôi. Ðội hình gồm có Nguyễn Bé, nguyên Phó chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam; Ðỗ Kiến Quốc, nguyên Giám đốc Ðài Phát thanh - Truyền hình Cà Mau; Nhà văn Phan Trung Nghĩa, nguyên Phó chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam tỉnh Bạc Liêu. Phải kể thêm rằng hôm đó còn có cô Hồng Vân, Báo Cà Mau tháp tùng. Trừ Hồng Vân ra, cả ba đứa giờ đã về hưu, bọn tôi hui hút có nhau từ thời làm Báo Minh Hải. Giờ ba thằng rủ nhau về xã Khánh Bình Ðông, Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Nơi đây là xứ sở của nhà trào phúng dân gian Ba Phi và là địa phận của rừng U Minh xưa.

Tết Ất Tỵ năm ấy

Ðêm cuối năm, ngồi nhà cũng biết các nước Ðông Nam Á họ đón Tết ra sao, cũng được xem bắn pháo hoa, được tận mắt nhìn Chủ tịch nước đọc thư chúc Tết. Thời 4.0 là thế. Lại nhớ, lại thương ông bà, cha mẹ, thương những bậc tiền nhân ngày ấy, cả xóm tôi chỉ có một cái radio, mà phải canh lính, lén bắt để được nghe Bác Hồ đọc thư chúc Tết.

Làm khách ở quê mình

Xa nhà cũng là một thử thách. Cuộc sống xa nhà dạy ta nhiều thứ. Tôi từng nhiều bận rời xa, nhưng đó chỉ là khoảng thời gian ngắn rời đi học tập, xong lại quay về để lớn, để trưởng thành. Lần này thật sự là chuyến rời quê để xây dựng tổ ấm, sự nghiệp cho riêng mình.

Gió lộng xứ Ðầm

Gió rộn cuối năm. Ðường về xứ Ðầm giờ đã thông thoáng, nhiều lựa chọn chớ không như cách đây chục năm, kiểu gì kiểu cũng phải cách trở một chuyến phà vượt sông...

Hương xưa xóm Mũi

Dòng người về Mũi Cà Mau, chiêm ngưỡng chóp đất thiêng liêng ở địa đầu cực Nam Tổ quốc, hẳn nhiên còn muốn biết nhiều hơn về vùng đất, con người xứ sở kỳ diệu này. Bởi ở đây đâu chỉ có đước, mắm, sông biển, phù sa mới "biết đi", nguồn thuỷ hải sản đặc trưng dồi dào... mà còn có lớp lớp con người với tính cách phóng khoáng, nghĩa nhân, can trường và đầy ắp những ước mơ, hoài bão để khai khẩn, gìn giữ, gầy dựng một vùng đất riêng có, duy nhất cả về vị trí địa lý và bản sắc văn hoá.

Thị trấn mang tên một dòng sông

Trên dải đất hình chữ S, có rất nhiều dòng sông, mỗi dòng sông mang dáng vẻ riêng. Có con sông mang tên đẹp như thiếu nữ: sông Nhật Lệ, Sông Hương. Có con sông nghe tên đã thấy rất oai hùng: Sông Mã. Nhiều con sông mang tên miền đất mà nó chảy qua như: sông Sài Gòn, sông Thái Bình... Riêng con sông quê tôi, đặc biệt hơn, mang tên một nhân vật lịch sử: sông Ông Ðốc. Thị trấn quê tôi vinh dự được mang tên một dòng sông - thị trấn Sông Ðốc!

Phát triển sản phẩm OCOP - Cơ hội và thách thức - Bài cuối: Cần giải pháp căn cơ

Sản phẩm OCOP và các dự án khởi nghiệp đang nhận được nhiều sự quan tâm. Nhằm hướng đến việc phát triển sản phẩm OCOP bền vững, tỉnh đã xác định nhiều giải pháp trọng tâm, trong đó chú trọng hỗ trợ chủ thể OCOP từ việc hình thành, nâng hạng sản phẩm đến tiếp cận thị trường.

Ðể tái nghèo không còn là nỗi lo

Giảm nghèo bền vững là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng mà tỉnh quan tâm hàng đầu và chỉ đạo sát sao trong những năm qua. Bằng những quyết sách thiết thực, sự huy động sức mạnh tổng hợp từ Mặt trận, đoàn thể, các cấp, các ngành, địa phương; bằng những giải pháp sinh kế hỗ trợ đúng, trúng, kịp thời, đã cơ bản giải được bài toán thoát nghèo và câu chuyện tái nghèo.

Ðể tái nghèo không còn là nỗi lo - Bài cuối: Tăng cường phối hợp, ngăn chặn tái nghèo

Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 là chủ trương lớn của Ðảng, Nhà nước; theo đó, tỉnh chỉ đạo kỳ quyết nhằm thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo.