Hoàng hôn ráng đỏ chân trời. Dòng sông thuỷ triều trào dâng náo nức ôm ấp bãi bờ. Những cánh rừng màu xanh non tơ xa ngút chân trời. Trong không gian rộn rã của đất trời, trong tiếng vọng xa xăm của rừng cây, biển cả làm ký ức tôi thức dậy, bao nhiêu nhớ thương, bao nhiêu kỷ niệm tràn về: Là vùng đất hoang sơ; là những con người chân chất hiền lành mà rất đỗi dũng cảm, anh hùng! Họ chiến thắng thiên nhiên khắc nghiệt qua bao đời người và từ khi có Ðảng, họ theo Ðảng đi đầu trong công cuộc chống ngoại xâm, trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Trong giờ phút này, lòng tôi rộn ràng niềm thương nỗi nhớ về vùng đất vừa chia xa, vừa gần gũi, mến yêu, về lòng người vừa chân chất, vừa tràn đầy tình người, yêu thương cách mạng vô bờ bến. Trong sự nhớ thương đó, tôi lại nhớ như in bài thơ “Ðất Viên An” của Nhà thơ Nguyễn Bá mà tôi thuộc lòng năm tôi chưa tròn mười tuổi:
“… Dường như có bóng ai chèo
Mà rừng rứt lá bay theo vội vàng
Chắc bây giờ ở Viên An
Mùa đông đã trải lá vàng trong cây
Nước rong đã ngập bãi lầy
Từng đàn sóng vượt biển đầy hát ca
Ơi vùng trời nước bao la…”
Tôi đứng như chôn chân trong cảnh trời nước bao la ấy mà khắc khoải nhớ về từng dòng sông, con rạch, cánh rừng: Ông Trang, Xóm Mũi, Rạch Tàu, Rạch Thọ, Kinh Năm, Ðường Ðào, Rạch Gốc, Hóc Năng, Vàm Lũng, Bồ Ðề… nơi một thời ghi dấu chiến tích oai hùng của Bến cảng giữa rừng - Bến cảng lòng dân - Nơi tiếp nhận những con “Tàu không số” của Ðường Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển Ðông.
Rừng rứt lá hay nỗi nhớ thương như rứt ruột của quê nhà gởi theo người đi chiến đấu. Tôi theo sống cùng các cô, các chú Giải phóng quân Ðoàn 962 - Ðơn vị bến tiếp nhận vũ khí từ đoàn tàu không số - Lữ đoàn 125 Hải quân Nhân dân Việt Nam làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí từ hậu phương lớn miền Bắc vào tiền tuyến lớn miền Nam trên con đường huyền thoại: Ðường Hồ Chí Minh trên biển.
Trong rừng đước Mũi Cà Mau. Ảnh: Thanh Dũng |
Hồi đó, tôi theo cha mẹ ở đơn vị 962. Rồi tôi đi học chữ tại đây. Tôi bập bẹ đánh vần mà thầy tôi là những người lính tàu không số. Trong mùa nắng chang chang, tôi được uống ngụm nước mát lành là tích tụ của những giọt mồ hôi được chưng cất từ nước biển mặn mà cô bác Rạch Gốc nhường cho.
Rừng đại ngàn rồi cũng rách bời loang lổ vì bom pháo Mỹ. Rừng xanh thẳm rồi cũng chết khô như phơi mình trong nắng gió vì hoá chất độc của kẻ thù.
Nhưng bến cảng thì vẫn sống - Bến cảng lòng dân.
Biết bao nhiêu tác phẩm báo chí, văn học nghệ thuật nói về con đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại và tấm lòng yêu nước kiên trung với Ðảng của những người dân trên các bến đón nhận tàu không số. Cô bác ngư dân ở các cửa sông, bờ biển nơi này không chỉ thanh thản hiến nơi mưu sinh bao đời của mình cho cách mạng làm bến đón tàu mà còn gởi cả núm ruột của mình theo bộ đội chiến đấu bảo vệ bến, bảo vệ con đường, gởi theo niềm thương nỗi nhớ, ngày ngày dõi mắt trông theo như rừng - rứt - lá…
Hơn 50 năm trước tôi từ giã nơi này, ra đi. Ngày ấy bom pháo ngất trời xé nát rừng xanh. Bộ đội, ngư dân chắt chiu từng giọt nước, chén cơm. Vậy mà tiễn tôi, quà cô Út thì khăn rằn, cậu Bảy cây viết, chú Hai cây muỗng làm từ vỏ bom dầu của Mỹ. Ngay căn cứ hậu cần trong ngọn Kinh Sâu đổ ra Kinh Hòm có cụm đước già cổ thụ - nay là Khóm 7, thị trấn Rạch Gốc. Trước ngày ra đi tôi trèo lên cây đước già cao nhất máng cây cần móc cua độc mộc của bác Năm Công làm tặng trước khi ông chuyển về Bến Tre (Năm Công tức Lê Công Cẩn, Bí thư chi bộ chiếc tàu đầu tiên của Bến Tre ra Bắc xin chi viện vũ khí). Tôi còn nhớ lời ông dạy: “Con móc cua bằng cần móc này cua không gãy càng”… Những giọt nước mắt tiễn đưa có khác gì rừng xanh rứt lá. Cuộc sống giản đơn mà vô cùng vĩ đại ấy được hoá thành thơ ca của những người trong cuộc. Chúng ta đọc một đoạn trong bài thơ “Nắng Tam Giang” của Khưu Ngọc Bảy, Trung đoàn trưởng Ðoàn 962:
“… Nắng rực rỡ trên rừng căn cứ cũ
Nắng hôn rừng loang lổ những hố bom
Nước ròng ai chở nắng về xóm Thủ
Ðể Tam Giang một chút chợt se buồn…”
Sau ngày giải phóng miền Nam đến giờ, dù khó khăn mấy, năm nào tôi cũng về thăm Rạch Gốc, Tân Ân, Viên An, Ðất Mũi và hình như năm sau nhiều lần về hơn năm trước. Mỗi lần về lòng như chất chứa trĩu nặng hơn tình yêu thương cô bác ở xứ sở này và cả mỗi dòng sông, cánh rừng đều gợi nhớ khôn nguôi:
Ðến kinh Ðầu Ðước nhớ chú Mười Sơn (quê Bến Tre), trong nắng cháy tháng Ba ngược dòng chở lu nước giếng măn mẳn đến cho các cô quân trang đang khát cháy cổ… Ðến Dinh Hạng như thấy bác Hai Ðấu (quê Trà Vinh) chắt chiu từng món đồ chơi bằng nhựa lượm được lúc tuần tra bờ biển, cho lũ nhỏ. Vô Kinh Hòm như gặp lại chú Bảy Huynh y tá (quê Ðịnh Thành - Cà Mau) bên bếp un muỗi tỉ mẩn gò từng chiếc kẹp I-nóc từ nhíp bom bi cho các chị, các cô giao liên, hậu cần…
Mỗi rặng đước, vàm sông như có hồn người, cứ đến, cứ về và tiễn đưa, như ngày căn cứ Vàm Lũng đầy ắp tiếng nói cười, tình yêu thương, sự sống và tinh thần chiến đấu quên mình vì Ðảng, vì Nhân dân của cán bộ, chiến sĩ Ðoàn 962 năm xưa.
Mỗi lần về Rạch Gốc là y như rằng nơi tôi ghé trước tiên là nhà má Bảy - tôi kêu bằng bà nội. Bà đã ngoài chín mươi. Tôi chưa buộc xong dây xuồng là đã nghe tiếng bà vọng xuống: - Ai như thằng Bé, con chú Sáu bây ơi. Mồ tổ cha bây, sao không đi luôn đi. Rồi bà hạ giọng: Ở trên đó con có hay gặp mấy chú ở cứ ngày xưa không? Con có ra ngoài Hải Phòng gặp mấy chú đi tàu sắt vô đây hồi đó không? Không biết thằng Bảy, Thằng Ba, thằng Hiếu gãy tay, thằng Hổ cụt chưn… bây giờ tụi nó ra sao. Mà sao tụi nó ít về quá vậy. Ðâu phải chèo xuồng nước ngược như ngày xưa, xe hơi đi một lèo là tới hà con. Rồi bà hạ giọng: “Bữa nay con hên, Út mầy mới làm hũ ba khía muối…”. Vậy đó, nội hỏi, nội mắng yêu rồi nội trách. Mà trách cũng phải: Ô-tô về tận ngõ, điện bừng sáng rừng sâu, phố xá rộn ràng… bao đổi thay mà chợt nghĩ tưởng trong mơ. Vậy mà sao bộ đội năm nào ít về xóm cũ.
Duy có một điều không còn mà không mất, đó là bến cảng giữa rừng không còn vết tích nhưng còn trong nỗi nhớ thương của người dân xứ biển. Bởi bến cảng ấy được xây nên bởi lòng dân theo Ðảng.
Bây giờ không còn nơi bốc dỡ vũ khí giữa rừng sâu như là bến cảng - Bến cảng giữa rừng. Nhưng còn đây bến cảng lòng dân mà mỗi ngôi nhà của cô bác ngày xưa ấy vẫn là Bến Ðợi./.
Cà Mau, tháng 10/2021
Bút ký của Nguyễn Bé Ngân Phương