- Ê thằng Út, chạy ra cự củi rút một ôm vô cho chị nấu cơm!
Mỗi lần nhận được lệnh như vậy là tôi lại dạ ran, rồi ba chân bốn cẳng chạy ra nhà kho, rút củi, lễ mễ ôm vô bếp. Bữa nào siêng thì làm luôn hai ba ôm cho mấy bà chị dâu, hoặc má tôi đút vô chưn bếp xài dần. Nhận được một lời khen của người lớn đã sướng, khi lửa tàn được thưởng thêm củ khoai lùi hoặc con ốc bươu, hay trái chuối nướng thì càng sướng hơn.
Ở nông thôn, cái thời lộ làng chưa thông, điện đài chưa tới thì hầu như nhà nào cũng có một hai cái cự củi, nơi để dành nguồn chất đốt hàng ngày. Hình ảnh những cái cự chất đầy củi cũng gần gũi, thân thương như cây rơm ngoài sân, cái bồ lúa trong nhà, hàng lu bên hè, chiếc xuồng ba lá dưới bến sông… mỗi khi nhắc tới, cứ làm nao nao trong lòng những người con xa quê, xa xứ.
Củi là chất đốt chủ yếu của các gia đình nông thôn xưa. Dự trữ củi phục vụ sinh hoạt, nấu nướng trong mùa mưa được xem là yêu cầu bắt buộc. Vì lẽ đó, mùa hạn anh em nhà tôi lại dành thời gian đi đốn cây làm củi.
Cây làm củi chủ yếu là các loài cây tạp, sẵn có trong vườn nhà, như quao, trâm bầu, bình bát… Sau khi đốn, cây được phơi vài ngày cho khô vỏ, ráo nhựa, rồi cưa thành những đoạn bằng nhau. Cưa xong thì róc thân cho gọn gàng, kế tiếp dùng búa hoặc dao chét bửa dọc ra, phơi nắng.
Kể nghe thì có vẻ đơn giản, nhưng làm khá vất vả, các công đoạn đều mất nhiều thời gian. Chuyện cưa cây thành khúc, rồi bửa ra đã mất vài ngày. Kéo cưa, chẻ củi liên tục làm hai tay mỏi đến rã rượi.
Kế tiếp là khâu phơi củi. Cứ mỗi sáng, trời nắng thì anh em trong nhà tranh thủ ôm củi ra sân, rải đều ra phơi; chiều phải mang hết vô nhà, vì nếu để qua đêm củi sẽ bị thấm sương. Cũng có khi trời đang nắng tốt bỗng chuyển mưa, cả nhà nháo nhào chạy ra “cứu củi”. Củi bửa thường có gai góc, nhiều cạnh bén. Ðàn ông, con trai ở trần, ôm, vác vài chuyến củi là bụng, vai in hằn các vết dọc ngang. Tôi hồi nhỏ hay lấy cái bao đựng lúa trải ra đất, xếp củi lên rồi túm bốn góc bao đem vô nhà; mỗi lượt đi đem được nhiều củi mà lại đỡ đau tay.
Nguồn củi ở nông thôn khá phong phú. Ngoài các cây lớn ra, nhà nông còn có thể tận dụng nhánh, đọt tràm, tàu dừa, tre khô, ván bìa, ván tạp, thậm chí là mo nang dừa, vỏ dừa khô… làm củi. Tuỳ vào công việc nặng hay nhẹ mà trong nhà có sự phân công công việc từng thành viên cho hợp lý.
Củi chẻ ra, một số dùng ngay, một số đem vô chất lên cự để dành. Củi để dành trên cự phải là củi tốt, phơi thật khô, bởi nếu phơi không được nắng, củi bị ẩm thì nấu chậm bắt lửa, cháy yếu, mà lại lên khói mù mịt.
Cự củi ít khi đặt ngay trong bếp, hay chỗ nấu ăn, mà thường được làm ở nhà kho, hoặc trong góc chuồng heo. Trong bếp chỉ chứa lượng củi xài vừa đủ, hết thì ra cự rút thêm. Cự củi khá đơn giản, gồm bốn cây lớn cỡ cườm tay, đóng chặt xuống đất làm trụ. Ở mỗi đầu, hai trụ cách nhau theo bề rộng chừng 3-4 tấc, chiều dài cự tuỳ vào lượng củi cần dự trữ của mỗi gia đình. Phía dưới cự được kê cây cho củi chất không tiếp đất; bốn đầu trụ được chằng, néo bằng dây bện, hoặc dây chì cho chắc chắn và thêm phần đẹp mắt.
Xếp củi lên cự cũng là cả một công trình, thường là nhờ bàn tay đảm đang của những người phụ nữ trong nhà. Thông thường củi cỡ lớn, củi bằng cây tốt được xếp dưới cùng; các thanh củi nhỏ hơn được xếp dần từ dưới lên theo kiểu dưới lớn, trên nhỏ. Củi trên cự phải xếp sao cho ken chặt, đều tăm tắp, ít khe hở và ngay hàng thẳng lối, khi cần thì có thể rút ra dễ dàng. Có khi củi đã xếp đầy cự rồi, nhìn tới nhìn lui chưa ưng ý lại dỡ ra, xếp lại.
Những gia đình kỹ lưỡng còn làm một hai cự riêng để chứa củi xấu, củi tạp xài trước. Củi làm ra trong một mùa khô có khi xài qua hai ba mùa mưa chưa hết. Ngoài ra, cự củi cũng được xem như một công trình dùng để trang trí, có tính thẩm mỹ cao và ẩn chứa hàm ý sâu sắc của gia chủ. Ðến nhà ai, thấy cái cự củi đẹp là biết trong gia đình ấy có những thành viên khéo léo, đảm đang; nhìn sâu hơn sẽ thấy đây là thông điệp về một gia đình nền nếp, luôn biết phòng xa để không bị động trong cuộc sống. Trên thực tế, vẫn có những gia đình hời hợt, không biết dự phòng, khi xảy ra chuyện thì cái gì cũng thiếu.
Thời bếp ga, bếp điện, những cái cự củi tuy vắng bóng dần, nhưng vẫn còn được khá nhiều gia đình duy trì. Về nông thôn, thỉnh thoảng bắt gặp vài gia đình có cự củi lớn và đẹp mắt. Ðiều này không lạ, vì dù sao, nguồn củi tận dụng từ gia đình cũng giúp bà con đỡ hao tốn một phần chi phí điện, gas. Cơm nấu củi thường ngon hơn cơm nấu bằng bếp gas, bếp điện. Hơn nữa, các món ăn cần nấu trong một khoảng thời gian dài, như luộc bánh tét chẳng hạn, thì sử dụng củi vẫn là phương pháp tối ưu.
Dù đã có bếp gas, bếp điện, nhưng nhiều gia đình ở nông thôn duy trì những cự củi làm chất đốt hàng ngày. |
Trên đường về quê ở xứ ngọt Trần Văn Thời, tôi vẫn thấy nhiều cự củi được người dân làm dọc bên đường, hoặc trước sân nhà. Có thể, bà con đang dự trữ, để chuyển vào những cái cự củi khác trong kho, dùng dần. Xa xa lại thấy những vệt khói lam bốc lên, chắc nhà ai đó đang nấu cơm chiều.
Bất giác, tôi chợt nhớ về những buổi chiều ở quê nhà, khi những tia nắng cuối ngày len qua vách lá lưa thưa, chiếu vào ngọn lửa bập bùng trong căn bếp. Khói bếp bay lên, hoà vào ánh nắng tạo thành một màu sắc rực rỡ, một cảnh tượng linh động, mê hồn. Mùi cơm chín, mùi của tô nước cơm đặc sệt, mùi ơ cá đồng kho chung tóp mỡ… toả ra dịu dàng và cũng thật nồng nàn, mời gọi.
Nơi đó, có lẽ là chốn bình yên và bao dung nhất, mà ai đi xa cũng muốn tìm về./.
Tuấn Ngọc