ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 11-8-25 11:03:34
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

70 NĂM HIỆP ĐỊNH GENEVA: GIÁ TRỊ THỜI ĐẠI TỪ CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO CÁN BỘ

Cuộc dịch chuyển lịch sử của 32.000 học sinh miền Nam ra đất Bắc

Báo Cà Mau Việc thành lập hệ thống trường học sinh miền Nam trên đất Bắc là một chủ trương lớn, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng.

Lời tòa soạn:

Suốt chặng đường từ Hội nghị Fontainebleau năm 1946 tới Hiệp định Geneva năm 1954, phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng áp dụng, thể hiện một cách nhuần nhuyễn dù ở những giai đoạn khó khăn nhất của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Hoàn cảnh luôn thay đổi, cuộc sống cũng như sự nghiệp cách mạng luôn thay đổi, phát triển, bởi vậy, sách lược trong từng lĩnh vực cụ thể cũng phải mềm dẻo, uyển chuyển, thay đổi (cái vạn biến). Nhưng dù có mềm dẻo, uyển chuyển, thay đổi như thế nào đi chăng nữa cũng không được quên mục đích cuối cùng (cái bất biến). Cái “bất biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh ở đây được cho là có ba điều: Độc lập, Tự do và Hạnh phúc.

Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thông qua những hoạt động thực tiễn của Người, cái vạn biến có thể được hiểu là những tình huống cách mạng đã, đang và sắp xảy ra hàng ngày hàng giờ mà chúng ta phải đối phó, phải xử lý để đạt được mục tiêu cách mạng đặt ra.

Ngay từ khi đang thương lượng Hiệp định Geneva năm 1954, Bác và Trung ương Đảng đã dự cảm, nhìn nhận trước về một cuộc trường chinh dân tộc còn gian khổ, kéo dài. Để miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cùng với việc tập kết bộ đội và cán bộ miền Nam ra Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ chủ trương đưa học sinh là con em cán bộ, chiến sỹ, đồng bào miền Nam ra miền Bắc học tập với tầm nhìn chiến lược là xây dựng lực lượng cán bộ kế cận cho cách mạng.

Bài 1: Cuộc dịch chuyển lịch sử của 32.000 học sinh miền Nam ra đất Bắc

Ngày 21/7/1954, Hiệp định Geneva được ký kết và công bố tại thành phố cùng tên (Thụy Sỹ) nhằm khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định dẫn đến chấm dứt sự hiện diện của quân đội Pháp trên bán đảo Đông Dương và chính thức kết thúc chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương cùng những điều khoản về đình chỉ chiến sự, tập kết và chuyển quân giữa miền Bắc và miền Nam...

Cùng với việc tập kết bộ đội và cán bộ miền Nam ra Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ chủ trương đưa học sinh là con em cán bộ, chiến sỹ, đồng bào miền Nam ra miền Bắc học tập với mục tiêu kiên định là xây dựng đội ngũ kế cận cho cách mạng miền Nam cũng như cách mạng cả nước sau này.

Nhớ về những ngày đầu ra Bắc học tập

Sáng hôm ấy, chúng tôi đến thăm một cựu học sinh miền Nam - bà Nguyễn Thanh Lịch ở Sóc Sơn, Hà Nội. Tuổi ngoài 80, trông bà vẫn rất nhanh nhẹn, tinh anh. Thấy chúng tôi, bà cười bảo: “Mưa mùa Hè đến nhanh mà tạnh cũng nhanh, trời vừa hửng nắng là bác ra sân đón các con, nóng lòng kể các con nghe chuyện thời đi học lắm…”

Rồi bà đưa chúng tôi vào căn phòng riêng của mình, nơi có ảnh Bác Hồ treo trang trọng và đầy ắp những kỷ vật của thầy cô giáo và các bạn trường học sinh miền Nam dấu yêu. Lật giở cuốn album cũ, ký ức của cô trò nhỏ từ những ngày học tập nơi đất Bắc, những lần được gặp Bác Hồ cứ thế ùa về…

Bà Nguyễn Thanh Lịch trò chuyện với phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus. (Ảnh: Minh Công/Vietnam+ )

Năm 1954, cô bé Nguyễn Thanh Lịch 10 tuổi, ba má đều hoạt động cách mạng. Ngày nọ, có một cán bộ đến nhà dặn dò gia đình chuẩn bị cho Thanh Lịch và em trai Thanh An ra Bắc đi học.

Ngày đó, người dân miền Nam tin tưởng tuyệt đối vào chủ trương của Đảng và Bác Hồ, bởi vậy, nghe nói “ra Bắc được đi học, được gặp Bác Hồ,” cô bé Lịch vui sướng trong lòng, hào hứng lên đường. Hành lý chỉ có một chiếc giỏ xách, một bộ quần áo. Từ quê nhà Quảng Nam, hai chị em được đưa ra Quy Nhơn rồi lên tàu thủy ra Thanh Hóa.

Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, con tàu cũng cập bến Sầm Sơn. Bà con Thanh Hóa dùng thuyền nhỏ ra đón các cháu học sinh miền Nam. Lịch say sóng ngất ngư, được một chú bộ đội cõng vào hội trường để ăn cháo gà. Gần đến nơi, cô bé ghé tai chú bộ đội nói nhỏ: “Chú ơi, cháu không ăn cháo gà đâu. Chú cho cháu đi gặp Bác Hồ.”

Chú bộ đội cười xòa: “Bác Hồ ở Hà Nội, không ở đây.”

Vậy là cô bé nức nở, không chịu ăn cháo. Chú đành dỗ dành: “Thôi bây giờ cháu vào ăn cháo đi đã, rồi mai này sẽ được ra Hà Nội gặp Bác Hồ.”

70 năm đã trôi qua mà ký ức ngày đầu ra Bắc vẫn hằn in trong tâm trí bà Lịch như thế. Bà còn nhớ lúc đó là cuối năm 1954, trời rất lạnh. Trẻ em Nam bộ lần đầu tiên biết thế nào là cái lạnh mùa Đông miền Bắc.

“Ăn cháo xong, chúng tôi được phát tư trang mỗi người một áo len, một áo bông chần, một đôi dép cao su, một chiếc mũ nan. Trời rét căm căm nhưng tôi đã bắt đầu nhận được tình cảm ấm áp của đồng bào miền Bắc, điều mà tôi luôn thấy biết ơn trong suốt cả cuộc đời,” bà Lịch tâm sự.

Bà Trần Tố Nga xưa (ảnh dưới) và nay. (Ảnh: AP, Telegraph)

Khác với bà Lịch, bà Trần Tố Nga (sinh năm 1942 tại Sóc Trăng, con gái của liệt sỹ Nguyễn Thị Tú, Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam) ra Bắc bằng đường hàng không.

Năm 1955, cô bé Nga 13 tuổi đã bỏ dở việc học tại trường Marie Curie (Sài Gòn) để ra Hà Nội học tập. Cô đã lên chuyến bay cuối cùng từ Sài Gòn ra Hải Phòng bởi chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên bố từ chối thực thi Hiệp định Geneva, việc tập kết không thể thực hiện được như trước.

“Ra đến sân bay, tôi òa khóc vì không muốn xa gia đình, bạn bè. Mẹ ôm tôi và bảo: ‘Đừng khóc, con ra đó học, cho mẹ gửi lời kính thăm Bác Hồ,” bà Nga nhớ lại.

Vậy là cô bé Nga ra Bắc, mang theo niềm tin tưởng tuyệt đối vào Bác Hồ và Trung ương Đảng, chuyên tâm học tập để rồi sau này trở thành phóng viên Thông tấn xã Giải phóng trong thời chiến tranh, hiệu trưởng nhiều trường học ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời bình. Đến khi về hưu, bà vẫn tiếp tục tham gia một cuộc chiến đặc biệt: Đòi công lý cho nạn nhân chất độc da cam Việt Nam thông qua vụ kiện các công ty hóa chất của Mỹ.

Chia sẻ với phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus, bà Nga cho rằng việc lập ra các trường miền Nam trên đất Bắc là một chủ trương rất đúng đắn, thể hiện tầm nhìn xa sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng. Biết rằng sự nghiệp thống nhất đất nước là một cuộc đấu tranh kéo dài vô cùng gian khổ, Bác rất coi trọng việc chuẩn bị cán bộ để xây dựng miền Nam khi thắng lợi hoàn toàn, thống nhất đất nước. Hơn nữa, việc đưa con em cán bộ, chiến sỹ cách mạng miền Nam ra Bắc cũng là cách để bảo vệ cho thế hệ mầm non tương lai đất nước vì chiến sự lúc đó vô cùng căng thẳng.

Chăm lo ‘núm ruột’ của miền Nam

Bác Hồ đã nhiều lần khẳng định: “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.” Lúc sinh thời, Bác cũng luôn tha thiết: “Miền Nam yêu quý luôn luôn ở trong trái tim tôi.”

Vì lẽ đó, Bác canh cánh bên lòng nỗi lo về các cháu thiếu nhi - “núm ruột” của miền Nam đau thương, ngoan cường, bất khuất. Bác nhiều lần trực tiếp nhắc nhở các lãnh đạo hai miền cố gắng đưa con em cán bộ, đồng bào miền Nam ra Bắc, nuôi dưỡng, cho ăn học thành người để về chiến đấu và xây dựng lại quê hương.

Bác Hồ vui Tết Trung Thu năm 1958 với thiếu nhi miền Nam tập kết. Người quàng khăn cho Bác là em Võ Thị Thảo, sinh năm 1943, người Quảng Nam, về sau hy sinh trong lúc làm nhiệm vụ, khi mới đôi mươi (năm 1967). (Ảnh tư liệu)

Trong lễ kỷ niệm 70 năm ngày thành lập hệ thống các trường miền Nam trên đất Bắc (1954-2024) diễn ra tại Bà Rịa-Vũng Tàu đầu năm 2024, nguyên Phó Thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình, Trưởng Ban liên lạc Học sinh miền Nam Trung ương cho hay trong suốt 21 năm (1954-1975), hơn 32.000 học sinh miền Nam đã lần lượt theo xe bộ đội, đi tàu thủy, máy bay, đi bộ vượt dãy Trường Sơn… ra miền Bắc học tập. Bộ Giáo dục và các bộ ngành liên quan được giao nhiệm vụ xây dựng những trường nội trú "thuận tiện giao thông, gần Hà Nội, gần Hồ Chủ tịch, gần Chính phủ" dành riêng cho học sinh miền Nam ăn học.

Đã có 28 trường học sinh miền Nam (tên trường được gọi theo số thứ tự từ 1 đến 28) được thành lập ở các địa phương xung quanh Hà Nội, như: Hà Tây (cũ), Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nam… Nơi có nhiều trường nhất gồm Hà Đông (12 trường), thành phố Hải Phòng (10 trường). Ngoài ra, còn có các trại nhi đồng miền Nam, khu học xá ở Quế Lâm, Nam Ninh (Trung Quốc) và hàng nghìn học sinh được gửi đi đào tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa khác.

Bên cạnh Trường Học sinh miền Nam còn có Trại Nhi đồng miền Nam do bà Trương Thị Sáu (vợ của nhà trí thức cách mạng Nguyễn An Ninh) phụ trách. Trại gồm các cháu từ 3 đến 6 tuổi, đều là con em cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc hoặc vẫn còn đang trực tiếp chiến đấu ở miền Nam.

Các hoạt động tập thể của học sinh miền Nam. (Ảnh tư liệu)

Việc thành lập hệ thống trường học sinh miền Nam trên đất Bắc là một chủ trương lớn, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, không chỉ thể hiện tầm nhìn sáng suốt, sâu rộng mà còn nói lên tình cảm cao quý của Bác Hồ, của Đảng, Nhà nước, của ngành giáo dục đối với con em đồng bào, chiến sỹ miền Nam.

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đánh giá: “Đây là vườn ươm đặc biệt, ươm những hạt giống quý báu vào bậc nhất mà Bác Hồ, Đảng, Nhà nước và nhân dân miền Bắc đã dành cho miền Nam từ những ngày gian khó.”

Những "hạt giống đỏ" được ươm trồng trên đất Bắc sau này đã quay về xây dựng miền Nam, trở thành lực lượng nòng cốt, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng. Nhiều người trong số họ đã thành các cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, các nhà khoa học, nhà giáo, nghệ sỹ, doanh nhân có uy tín, đóng góp nhiều cho xã hội.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Hệ thống trường miền Nam cho thấy bài học từ tầm nhìn chiến lược "trồng người," xác định mục tiêu giáo dục, đào tạo thế hệ cách mạng. (Ảnh: TTXVN)

Năm 1975, đất nước thống nhất, các học sinh miền Nam trở lại quê hương tiếp tục học tập, công tác, một số ở lại miền Bắc làm việc và xây dựng gia đình. Các trường học sinh miền Nam trên đất Bắc cũng hoàn thành sứ mệnh. Cuộc dịch chuyển học sinh quy mô lớn nhất lịch sử được đánh giá thành công trên cả ba phương diện: Rèn luyện con người, mô hình giáo dục và chiến lược đào tạo lâu dài.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhận định rằng bài học kinh nghiệm từ hệ thống trường học sinh miền Nam vẫn giữ nguyên giá trị đối với ngành giáo dục-đào tạo hiện nay. Đó là bài học từ tầm nhìn chiến lược “trồng người” đến việc xác định và kiên định mục tiêu giáo dục, đào tạo thế hệ cách mạng cho đời sau. Đó là bài học tất cả vì học sinh thân yêu, cả hệ thống chính trị, nhà trường, gia đình và xã hội cùng chăm sóc, vun trồng cho các thế hệ tương lai của đất nước.

Vườn ươm đặc biệt của Bác Hồ và chủ trương của Đảng trong những năm kháng chiến đã gợi mở chiến lược giáo dục-đào tạo ngày nay, như văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế”; chú trọng “nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.”./.

Theo vietnamplus.vn

 

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.