ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 1-6-25 08:01:54
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

70 NĂM HIỆP ĐỊNH GENEVA: GIÁ TRỊ THỜI ĐẠI TỪ CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO CÁN BỘ

Những cánh chim phương Nam trưởng thành trong tổ ấm đất Bắc

Báo Cà Mau Những học sinh miền Nam luôn xúc động nghẹn ngào khi nhớ về những kỷ niệm khi được gặp Bác Hồ, được thầy cô giáo và nhân dân miền Bắc chăm lo cho từng bữa ăn, giấc ngủ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm, trò chuyện tại trại nhi đồng ở Đống Đa, Hà Nội. (Ảnh: Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh)

Bài 2: Những cánh chim phương Nam trưởng thành trong tổ ấm đất Bắc

Trong những ngày đầu đón học sinh miền Nam, người dân miền Bắc dù còn nhiều khốn khó nhưng vẫn nhường cơm, sẻ áo, đùm bọc, đón nhận những đứa con của đồng bào, đồng chí miền Nam. Ngược lại, học sinh miền Nam cũng chuyên tâm học tập, rèn luyện, cùng nhân dân miền Bắc khắc phục khó khăn, tiếp sức cho miền Nam đánh giặc.

Trong cuộc trò chuyện cùng phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus, nhiều nhân chứng lịch sử xúc động, nghẹn ngào khi nhớ về thời niên thiếu của mình trên đất Bắc, nhớ những kỷ niệm khi được gặp Bác Hồ, được thầy cô giáo và nhân dân miền Bắc chăm lo cho từng bữa ăn, giấc ngủ.

Nhớ mãi tình thương bao la của Bác

Kể lại những kỷ niệm ở trường học sinh miền Nam, bà Nguyễn Thanh Lịch dường như trẻ lại. Nhìn ánh mắt, nụ cười của bà, tôi bỗng thấy phảng phất hình ảnh cô trò nhỏ lém lỉnh năm nào.

Bà Lịch đã học tại 6 ngôi trường khác nhau, do đó bà cũng có cơ hội được gặp Bác Hồ nhiều hơn các bạn học khác.

"Miền Nam yêu quý luôn trong tim tôi” - Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tuổi đã ngoài 80, tâm trí như phủ mây mờ, nhưng bà vẫn nhớ như in một lần Bác đến thăm trường học sinh miền Nam và hỏi: “Các cháu ăn có no không?” Học sinh đồng thanh: “Dạ có, dạ có!” Rồi Bác lại hỏi: “Các cháu có thèm ăn món gì nữa không?” Bà Lịch cùng các bạn của mình lại nhao lên: “Dạ có, dạ có!” rồi thưa Bác là thèm ăn chè, món đồ ngọt quen thuộc với trẻ nhỏ miền Nam.

Bác lặng đi một chút rồi quay sang các cô cấp dưỡng dặn: “Dù còn nhiều khó khăn nhưng các cô chú hãy cố gắng cho các cháu ăn hai bữa chè mỗi tháng nhé, đừng để các cháu thèm, tội lắm.”

Vậy là từ đó trở đi, các cháu học sinh miền Nam được ăn hai bữa chè mỗi tháng, khi thì chè trôi nước, khi thì chè đậu, món ăn giản dị nhưng cũng giúp những tâm hồn non nớt vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương khi phải xa gia đình từ khi còn quá nhỏ.

Nhớ lại kỷ niệm ấy, bà Lịch rưng rưng bảo rằng đó không chỉ là câu chuyện về bát chè mà còn ẩn chứa tình thương yêu bao la của Bác Hồ dành cho học sinh miền Nam.

Từ chủ trương của Bác, đội ngũ giáo viên giảng dạy trong các trường học sinh miền Nam được lựa chọn kỹ càng, đào tạo bài bản, có trình độ và khả năng sư phạm. Đội ngũ này xuất phát từ hai nguồn, hoặc là giáo viên miền Nam tập kết, hoặc thầy cô được đào tạo ở các trường sư phạm miền Bắc, hoặc ở Trung Quốc. Thầy cô cũng phải tạm xa gia đình, cùng ăn cùng ở, vừa giảng dạy vừa thay người thân chăm lo cho học trò miền Nam.

Công đoàn trường số 13 chụp cùng các em học sinh. (Ảnh tư liệu)

Vậy mới có chuyện những cô giáo đã “làm mẹ từ trước khi làm vợ” bởi họ không chỉ truyền thụ kiến thức mà còn chăm lo từng bữa ăn, giấc ngủ cho học trò, nào tắm giặt cho các em, lo âu khi các em ốm bệnh, nào chỉ dạy cách may vá, tự lo cho bản thân mình…

Bà Lịch mỉm cười kể cho chúng tôi nghe một kỷ niệm khi bà bắt đầu bước vào ngưỡng cửa thời thiếu nữ. Một ngày, bà thấy “hiện tượng lạ” bèn kể với các bạn gái trong lớp và bảo rằng “không bị đau mà sao thấy chảy máu, hay mình sắp chết rồi?” Cùng cảnh ngộ, mấy bạn gái ôm nhau khóc, thưa với cô giáo Nguyễn Ngọc Tuyết là tụi con sắp chết rồi, không được về miền Nam nữa.

Cô giáo hỏi rõ sự tình và bật cười, nhưng rồi cô lại khóc vì thương các em gái xa vòng tay mẹ khi còn quá ngây thơ, biết bao nỗi niềm, tâm sự tuổi mới lớn, không được bảo ban tận tình như khi ở bên mẹ.

Vậy là cô trở thành người mẹ, hướng dẫn học sinh nữ cách chăm sóc bản thân, từ đó, các em lại chia sẻ kinh nghiệm với bạn khác.

“Suốt những năm tháng ở miền Bắc, tôi đã cảm nhận được rất rõ tình cảm của Bác Hồ, sự quan tâm chăm sóc của các thầy cô giáo và đồng bào miền Bắc, quả đúng là tinh thần ‘tất cả vì học sinh miền Nam thân yêu’ mà tự trái tim này, chúng tôi biết ơn mãi mãi,” bà Lịch xúc động nói.

Trưởng thành trong vòng tay đồng bào miền Bắc

Sau 9 năm kháng chiến, miền Bắc bị tàn phá, đời sống của cán bộ, chiến sỹ và nhân dân còn thiếu thốn trăm bề, thế nhưng nhân dân miền Bắc vẫn ưu tiên, chăm sóc cho học sinh miền Nam đầy đủ nhất có thể.

Nhà báo Đức Lượng, nguyên Phó Tổng Biên tập Báo Nhân Dân nhớ lại: “Ngày ấy, nhân dân miền Bắc mới được giải phóng, vừa cải cách ruộng đất, vừa khôi phục hòa bình, đời sống còn nhiều khó khăn. Nông dân huyện Quảng Xương (Thanh Hóa), nơi chúng tôi đặt chân đến còn đang đói. Khoai lang vừa bói củ bằng ngón tay đã phải dỡ lên ăn. Người già ốm đau, trẻ con được bát cháo hoa là điều hiếm lắm.”

Ông Bùi Hồng Đô, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Phúc, tặng kỷ vật cho ông Huỳnh Văn Thòn và bà Nguyễn Thế Thanh, đại diện Ban liên lạc Học sinh miền Nam nhân khai mạc trưng bày "Học sinh miền Nam trên đất Bắc" tại Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh ngày 17/5/2024. (Ảnh: Nguyễn Á)

Vậy mà học sinh miền Nam luôn được ưu tiên ăn cơm trắng, cá kho để có sức học tập. Giờ nghỉ, học sinh tăng gia sản xuất, nữ được học thêm nữ công, nam được dạy nghề mộc, nghề điện để có thêm kỹ năng trong cuộc sống và quan trọng nhất là không có thời gian rảnh rỗi để nhớ nhà hoặc nghĩ ra các trò nghịch ngợm, quậy phá. Thỉnh thoảng, đội chiếu bóng lưu động còn chiếu phim cho học sinh các trường miền Nam cùng xem, như là một hoạt động ngoại khóa.

Bà Nguyễn Thế Thanh (sinh năm 1953, nguyên Phó Giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, con gái Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nguyễn Thế Truyện) còn nhớ khoảng thời gian đi sơ tán ở Vĩnh Phúc, ở nhờ nhà người dân trong khoảng một năm. Trong nhà chỉ có hai chiếc chõng tre, chủ nhà nhường chiếc chõng lớn cho hai cô học trò miền Nam là Thanh và Mai, còn hai mẹ con chủ nhà nằm trên chiếc chõng nhỏ.

Những cậu học sinh miền Nam trưởng thành và gặt hái thành công ở nhiều lĩnh vực sản xuất công nghiệp, hải quan, tàu biển... (Ảnh tư liệu)

“Tôi nhớ những năm ấy miền Bắc vừa chi viện cho tiền tuyến lớn, vừa chống chiến tranh phá hoại nên đời sống rất khó khăn. Bà con thường xuyên phải ăn cơm độn khoai, sắn. Một hôm, đi học về tôi thấy có hai bát cơm trắng trong lồng bàn mà không dám ăn. Cô chủ nhà bèn bảo đó là cơm phần cho tôi và bạn Mai. Tôi xúc động nhớ mãi không quên ân tình đó,” bà Thanh kể.

Trong số học sinh miền Nam cũng có những bạn trai nghịch ngợm, đi đào trộm khoai, bắt trộm gà nhưng người dân đều bỏ qua, bởi họ thương những đứa trẻ sớm phải xa quê hương, bởi bố mẹ chúng còn đang chiến đấu nơi chiến trường miền Nam.

“Người miền Bắc lúc đó cũng đói khổ mà vẫn sẵn lòng nhường cơm sẻ áo cho học sinh miền Nam. Nếu không có tình thương tự đáy lòng thì sẽ không có sự bao bọc con em miền Nam như thế và chúng tôi cũng không thể có ngày hôm nay. Bản thân chúng tôi cũng nhớ lời dạy ‘đoàn kết’ của Bác Hồ mà thương yêu nhau không phân biệt Nam-Bắc,” bà Thanh tâm sự.

Bà Trần Tố Nga, nguyên phóng viên Thông tấn xã Giải phóng, cũng có suy nghĩ như vậy. Bà cho hay học sinh miền Nam đã học cách yêu thương, tôn trọng lẫn nhau, yêu quê hương đất nước, phải sống trung thực, chia sẻ với tập thể, đoàn kết với nhau và đoàn kết với đồng bào miền Bắc.

Bà nói: “Chúng tôi chưa từng giành nhau cái gì mà ngược lại, còn chia nhau từng hạt muối, con cá, những tâm sự vui buồn. Năm tôi học lớp 7, có em lớp 6 khóc hết nước mắt khi nhận tin ba ở miền Nam bị địch bắt. Chúng tôi đến bên, đứa nào cũng khóc theo, xem đó là nỗi đau buồn của mình.”

Có học sinh miền Nam còn lén giấu cơm vào vạt áo để đưa qua hàng rào cho các bạn người miền Bắc cùng trang lứa với mình hoặc dành phần cá kho để mời bà con miền Bắc nhưng đều bị từ chối với lý do: “Các con là học sinh miền Nam ra đây, cần ăn uống đầy đủ để học hành. Không phải lo cho cô bác.”

Với học sinh miền Nam, hai chữ “biết ơn” đồng bào miền Bắc được họ ghi lại nhiều lần trong nhật ký, in sâu trong trái tim họ suốt nhiều năm và giờ đây, những mái đầu bạc vẫn không nén được sự xúc động khi nhắc đến hai chữ này./.

Niềm vui ngày gặp mặt của các học sinh trường miền Nam trên đất Bắc. (Ảnh: Nguyễn Á)

 

Theo vietnamplus.vn

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.