Thứ sáu, 5-9-25 19:10:47
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

70 NĂM HIỆP ĐỊNH GENEVA: GIÁ TRỊ THỜI ĐẠI TỪ CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO CÁN BỘ

Những cánh chim phương Nam trưởng thành trong tổ ấm đất Bắc

Báo Cà Mau Những học sinh miền Nam luôn xúc động nghẹn ngào khi nhớ về những kỷ niệm khi được gặp Bác Hồ, được thầy cô giáo và nhân dân miền Bắc chăm lo cho từng bữa ăn, giấc ngủ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm, trò chuyện tại trại nhi đồng ở Đống Đa, Hà Nội. (Ảnh: Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh)

Bài 2: Những cánh chim phương Nam trưởng thành trong tổ ấm đất Bắc

Trong những ngày đầu đón học sinh miền Nam, người dân miền Bắc dù còn nhiều khốn khó nhưng vẫn nhường cơm, sẻ áo, đùm bọc, đón nhận những đứa con của đồng bào, đồng chí miền Nam. Ngược lại, học sinh miền Nam cũng chuyên tâm học tập, rèn luyện, cùng nhân dân miền Bắc khắc phục khó khăn, tiếp sức cho miền Nam đánh giặc.

Trong cuộc trò chuyện cùng phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus, nhiều nhân chứng lịch sử xúc động, nghẹn ngào khi nhớ về thời niên thiếu của mình trên đất Bắc, nhớ những kỷ niệm khi được gặp Bác Hồ, được thầy cô giáo và nhân dân miền Bắc chăm lo cho từng bữa ăn, giấc ngủ.

Nhớ mãi tình thương bao la của Bác

Kể lại những kỷ niệm ở trường học sinh miền Nam, bà Nguyễn Thanh Lịch dường như trẻ lại. Nhìn ánh mắt, nụ cười của bà, tôi bỗng thấy phảng phất hình ảnh cô trò nhỏ lém lỉnh năm nào.

Bà Lịch đã học tại 6 ngôi trường khác nhau, do đó bà cũng có cơ hội được gặp Bác Hồ nhiều hơn các bạn học khác.

"Miền Nam yêu quý luôn trong tim tôi” - Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tuổi đã ngoài 80, tâm trí như phủ mây mờ, nhưng bà vẫn nhớ như in một lần Bác đến thăm trường học sinh miền Nam và hỏi: “Các cháu ăn có no không?” Học sinh đồng thanh: “Dạ có, dạ có!” Rồi Bác lại hỏi: “Các cháu có thèm ăn món gì nữa không?” Bà Lịch cùng các bạn của mình lại nhao lên: “Dạ có, dạ có!” rồi thưa Bác là thèm ăn chè, món đồ ngọt quen thuộc với trẻ nhỏ miền Nam.

Bác lặng đi một chút rồi quay sang các cô cấp dưỡng dặn: “Dù còn nhiều khó khăn nhưng các cô chú hãy cố gắng cho các cháu ăn hai bữa chè mỗi tháng nhé, đừng để các cháu thèm, tội lắm.”

Vậy là từ đó trở đi, các cháu học sinh miền Nam được ăn hai bữa chè mỗi tháng, khi thì chè trôi nước, khi thì chè đậu, món ăn giản dị nhưng cũng giúp những tâm hồn non nớt vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương khi phải xa gia đình từ khi còn quá nhỏ.

Nhớ lại kỷ niệm ấy, bà Lịch rưng rưng bảo rằng đó không chỉ là câu chuyện về bát chè mà còn ẩn chứa tình thương yêu bao la của Bác Hồ dành cho học sinh miền Nam.

Từ chủ trương của Bác, đội ngũ giáo viên giảng dạy trong các trường học sinh miền Nam được lựa chọn kỹ càng, đào tạo bài bản, có trình độ và khả năng sư phạm. Đội ngũ này xuất phát từ hai nguồn, hoặc là giáo viên miền Nam tập kết, hoặc thầy cô được đào tạo ở các trường sư phạm miền Bắc, hoặc ở Trung Quốc. Thầy cô cũng phải tạm xa gia đình, cùng ăn cùng ở, vừa giảng dạy vừa thay người thân chăm lo cho học trò miền Nam.

Công đoàn trường số 13 chụp cùng các em học sinh. (Ảnh tư liệu)

Vậy mới có chuyện những cô giáo đã “làm mẹ từ trước khi làm vợ” bởi họ không chỉ truyền thụ kiến thức mà còn chăm lo từng bữa ăn, giấc ngủ cho học trò, nào tắm giặt cho các em, lo âu khi các em ốm bệnh, nào chỉ dạy cách may vá, tự lo cho bản thân mình…

Bà Lịch mỉm cười kể cho chúng tôi nghe một kỷ niệm khi bà bắt đầu bước vào ngưỡng cửa thời thiếu nữ. Một ngày, bà thấy “hiện tượng lạ” bèn kể với các bạn gái trong lớp và bảo rằng “không bị đau mà sao thấy chảy máu, hay mình sắp chết rồi?” Cùng cảnh ngộ, mấy bạn gái ôm nhau khóc, thưa với cô giáo Nguyễn Ngọc Tuyết là tụi con sắp chết rồi, không được về miền Nam nữa.

Cô giáo hỏi rõ sự tình và bật cười, nhưng rồi cô lại khóc vì thương các em gái xa vòng tay mẹ khi còn quá ngây thơ, biết bao nỗi niềm, tâm sự tuổi mới lớn, không được bảo ban tận tình như khi ở bên mẹ.

Vậy là cô trở thành người mẹ, hướng dẫn học sinh nữ cách chăm sóc bản thân, từ đó, các em lại chia sẻ kinh nghiệm với bạn khác.

“Suốt những năm tháng ở miền Bắc, tôi đã cảm nhận được rất rõ tình cảm của Bác Hồ, sự quan tâm chăm sóc của các thầy cô giáo và đồng bào miền Bắc, quả đúng là tinh thần ‘tất cả vì học sinh miền Nam thân yêu’ mà tự trái tim này, chúng tôi biết ơn mãi mãi,” bà Lịch xúc động nói.

Trưởng thành trong vòng tay đồng bào miền Bắc

Sau 9 năm kháng chiến, miền Bắc bị tàn phá, đời sống của cán bộ, chiến sỹ và nhân dân còn thiếu thốn trăm bề, thế nhưng nhân dân miền Bắc vẫn ưu tiên, chăm sóc cho học sinh miền Nam đầy đủ nhất có thể.

Nhà báo Đức Lượng, nguyên Phó Tổng Biên tập Báo Nhân Dân nhớ lại: “Ngày ấy, nhân dân miền Bắc mới được giải phóng, vừa cải cách ruộng đất, vừa khôi phục hòa bình, đời sống còn nhiều khó khăn. Nông dân huyện Quảng Xương (Thanh Hóa), nơi chúng tôi đặt chân đến còn đang đói. Khoai lang vừa bói củ bằng ngón tay đã phải dỡ lên ăn. Người già ốm đau, trẻ con được bát cháo hoa là điều hiếm lắm.”

Ông Bùi Hồng Đô, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Phúc, tặng kỷ vật cho ông Huỳnh Văn Thòn và bà Nguyễn Thế Thanh, đại diện Ban liên lạc Học sinh miền Nam nhân khai mạc trưng bày "Học sinh miền Nam trên đất Bắc" tại Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh ngày 17/5/2024. (Ảnh: Nguyễn Á)

Vậy mà học sinh miền Nam luôn được ưu tiên ăn cơm trắng, cá kho để có sức học tập. Giờ nghỉ, học sinh tăng gia sản xuất, nữ được học thêm nữ công, nam được dạy nghề mộc, nghề điện để có thêm kỹ năng trong cuộc sống và quan trọng nhất là không có thời gian rảnh rỗi để nhớ nhà hoặc nghĩ ra các trò nghịch ngợm, quậy phá. Thỉnh thoảng, đội chiếu bóng lưu động còn chiếu phim cho học sinh các trường miền Nam cùng xem, như là một hoạt động ngoại khóa.

Bà Nguyễn Thế Thanh (sinh năm 1953, nguyên Phó Giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, con gái Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nguyễn Thế Truyện) còn nhớ khoảng thời gian đi sơ tán ở Vĩnh Phúc, ở nhờ nhà người dân trong khoảng một năm. Trong nhà chỉ có hai chiếc chõng tre, chủ nhà nhường chiếc chõng lớn cho hai cô học trò miền Nam là Thanh và Mai, còn hai mẹ con chủ nhà nằm trên chiếc chõng nhỏ.

Những cậu học sinh miền Nam trưởng thành và gặt hái thành công ở nhiều lĩnh vực sản xuất công nghiệp, hải quan, tàu biển... (Ảnh tư liệu)

“Tôi nhớ những năm ấy miền Bắc vừa chi viện cho tiền tuyến lớn, vừa chống chiến tranh phá hoại nên đời sống rất khó khăn. Bà con thường xuyên phải ăn cơm độn khoai, sắn. Một hôm, đi học về tôi thấy có hai bát cơm trắng trong lồng bàn mà không dám ăn. Cô chủ nhà bèn bảo đó là cơm phần cho tôi và bạn Mai. Tôi xúc động nhớ mãi không quên ân tình đó,” bà Thanh kể.

Trong số học sinh miền Nam cũng có những bạn trai nghịch ngợm, đi đào trộm khoai, bắt trộm gà nhưng người dân đều bỏ qua, bởi họ thương những đứa trẻ sớm phải xa quê hương, bởi bố mẹ chúng còn đang chiến đấu nơi chiến trường miền Nam.

“Người miền Bắc lúc đó cũng đói khổ mà vẫn sẵn lòng nhường cơm sẻ áo cho học sinh miền Nam. Nếu không có tình thương tự đáy lòng thì sẽ không có sự bao bọc con em miền Nam như thế và chúng tôi cũng không thể có ngày hôm nay. Bản thân chúng tôi cũng nhớ lời dạy ‘đoàn kết’ của Bác Hồ mà thương yêu nhau không phân biệt Nam-Bắc,” bà Thanh tâm sự.

Bà Trần Tố Nga, nguyên phóng viên Thông tấn xã Giải phóng, cũng có suy nghĩ như vậy. Bà cho hay học sinh miền Nam đã học cách yêu thương, tôn trọng lẫn nhau, yêu quê hương đất nước, phải sống trung thực, chia sẻ với tập thể, đoàn kết với nhau và đoàn kết với đồng bào miền Bắc.

Bà nói: “Chúng tôi chưa từng giành nhau cái gì mà ngược lại, còn chia nhau từng hạt muối, con cá, những tâm sự vui buồn. Năm tôi học lớp 7, có em lớp 6 khóc hết nước mắt khi nhận tin ba ở miền Nam bị địch bắt. Chúng tôi đến bên, đứa nào cũng khóc theo, xem đó là nỗi đau buồn của mình.”

Có học sinh miền Nam còn lén giấu cơm vào vạt áo để đưa qua hàng rào cho các bạn người miền Bắc cùng trang lứa với mình hoặc dành phần cá kho để mời bà con miền Bắc nhưng đều bị từ chối với lý do: “Các con là học sinh miền Nam ra đây, cần ăn uống đầy đủ để học hành. Không phải lo cho cô bác.”

Với học sinh miền Nam, hai chữ “biết ơn” đồng bào miền Bắc được họ ghi lại nhiều lần trong nhật ký, in sâu trong trái tim họ suốt nhiều năm và giờ đây, những mái đầu bạc vẫn không nén được sự xúc động khi nhắc đến hai chữ này./.

Niềm vui ngày gặp mặt của các học sinh trường miền Nam trên đất Bắc. (Ảnh: Nguyễn Á)

 

Theo vietnamplus.vn

 

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.