ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 18-7-25 09:24:05
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

70 NĂM HIỆP ĐỊNH GENEVA: GIÁ TRỊ THỜI ĐẠI TỪ CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO CÁN BỘ

Những cánh chim phương Nam trưởng thành trong tổ ấm đất Bắc

Báo Cà Mau Những học sinh miền Nam luôn xúc động nghẹn ngào khi nhớ về những kỷ niệm khi được gặp Bác Hồ, được thầy cô giáo và nhân dân miền Bắc chăm lo cho từng bữa ăn, giấc ngủ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm, trò chuyện tại trại nhi đồng ở Đống Đa, Hà Nội. (Ảnh: Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh)

Bài 2: Những cánh chim phương Nam trưởng thành trong tổ ấm đất Bắc

Trong những ngày đầu đón học sinh miền Nam, người dân miền Bắc dù còn nhiều khốn khó nhưng vẫn nhường cơm, sẻ áo, đùm bọc, đón nhận những đứa con của đồng bào, đồng chí miền Nam. Ngược lại, học sinh miền Nam cũng chuyên tâm học tập, rèn luyện, cùng nhân dân miền Bắc khắc phục khó khăn, tiếp sức cho miền Nam đánh giặc.

Trong cuộc trò chuyện cùng phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus, nhiều nhân chứng lịch sử xúc động, nghẹn ngào khi nhớ về thời niên thiếu của mình trên đất Bắc, nhớ những kỷ niệm khi được gặp Bác Hồ, được thầy cô giáo và nhân dân miền Bắc chăm lo cho từng bữa ăn, giấc ngủ.

Nhớ mãi tình thương bao la của Bác

Kể lại những kỷ niệm ở trường học sinh miền Nam, bà Nguyễn Thanh Lịch dường như trẻ lại. Nhìn ánh mắt, nụ cười của bà, tôi bỗng thấy phảng phất hình ảnh cô trò nhỏ lém lỉnh năm nào.

Bà Lịch đã học tại 6 ngôi trường khác nhau, do đó bà cũng có cơ hội được gặp Bác Hồ nhiều hơn các bạn học khác.

"Miền Nam yêu quý luôn trong tim tôi” - Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tuổi đã ngoài 80, tâm trí như phủ mây mờ, nhưng bà vẫn nhớ như in một lần Bác đến thăm trường học sinh miền Nam và hỏi: “Các cháu ăn có no không?” Học sinh đồng thanh: “Dạ có, dạ có!” Rồi Bác lại hỏi: “Các cháu có thèm ăn món gì nữa không?” Bà Lịch cùng các bạn của mình lại nhao lên: “Dạ có, dạ có!” rồi thưa Bác là thèm ăn chè, món đồ ngọt quen thuộc với trẻ nhỏ miền Nam.

Bác lặng đi một chút rồi quay sang các cô cấp dưỡng dặn: “Dù còn nhiều khó khăn nhưng các cô chú hãy cố gắng cho các cháu ăn hai bữa chè mỗi tháng nhé, đừng để các cháu thèm, tội lắm.”

Vậy là từ đó trở đi, các cháu học sinh miền Nam được ăn hai bữa chè mỗi tháng, khi thì chè trôi nước, khi thì chè đậu, món ăn giản dị nhưng cũng giúp những tâm hồn non nớt vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương khi phải xa gia đình từ khi còn quá nhỏ.

Nhớ lại kỷ niệm ấy, bà Lịch rưng rưng bảo rằng đó không chỉ là câu chuyện về bát chè mà còn ẩn chứa tình thương yêu bao la của Bác Hồ dành cho học sinh miền Nam.

Từ chủ trương của Bác, đội ngũ giáo viên giảng dạy trong các trường học sinh miền Nam được lựa chọn kỹ càng, đào tạo bài bản, có trình độ và khả năng sư phạm. Đội ngũ này xuất phát từ hai nguồn, hoặc là giáo viên miền Nam tập kết, hoặc thầy cô được đào tạo ở các trường sư phạm miền Bắc, hoặc ở Trung Quốc. Thầy cô cũng phải tạm xa gia đình, cùng ăn cùng ở, vừa giảng dạy vừa thay người thân chăm lo cho học trò miền Nam.

Công đoàn trường số 13 chụp cùng các em học sinh. (Ảnh tư liệu)

Vậy mới có chuyện những cô giáo đã “làm mẹ từ trước khi làm vợ” bởi họ không chỉ truyền thụ kiến thức mà còn chăm lo từng bữa ăn, giấc ngủ cho học trò, nào tắm giặt cho các em, lo âu khi các em ốm bệnh, nào chỉ dạy cách may vá, tự lo cho bản thân mình…

Bà Lịch mỉm cười kể cho chúng tôi nghe một kỷ niệm khi bà bắt đầu bước vào ngưỡng cửa thời thiếu nữ. Một ngày, bà thấy “hiện tượng lạ” bèn kể với các bạn gái trong lớp và bảo rằng “không bị đau mà sao thấy chảy máu, hay mình sắp chết rồi?” Cùng cảnh ngộ, mấy bạn gái ôm nhau khóc, thưa với cô giáo Nguyễn Ngọc Tuyết là tụi con sắp chết rồi, không được về miền Nam nữa.

Cô giáo hỏi rõ sự tình và bật cười, nhưng rồi cô lại khóc vì thương các em gái xa vòng tay mẹ khi còn quá ngây thơ, biết bao nỗi niềm, tâm sự tuổi mới lớn, không được bảo ban tận tình như khi ở bên mẹ.

Vậy là cô trở thành người mẹ, hướng dẫn học sinh nữ cách chăm sóc bản thân, từ đó, các em lại chia sẻ kinh nghiệm với bạn khác.

“Suốt những năm tháng ở miền Bắc, tôi đã cảm nhận được rất rõ tình cảm của Bác Hồ, sự quan tâm chăm sóc của các thầy cô giáo và đồng bào miền Bắc, quả đúng là tinh thần ‘tất cả vì học sinh miền Nam thân yêu’ mà tự trái tim này, chúng tôi biết ơn mãi mãi,” bà Lịch xúc động nói.

Trưởng thành trong vòng tay đồng bào miền Bắc

Sau 9 năm kháng chiến, miền Bắc bị tàn phá, đời sống của cán bộ, chiến sỹ và nhân dân còn thiếu thốn trăm bề, thế nhưng nhân dân miền Bắc vẫn ưu tiên, chăm sóc cho học sinh miền Nam đầy đủ nhất có thể.

Nhà báo Đức Lượng, nguyên Phó Tổng Biên tập Báo Nhân Dân nhớ lại: “Ngày ấy, nhân dân miền Bắc mới được giải phóng, vừa cải cách ruộng đất, vừa khôi phục hòa bình, đời sống còn nhiều khó khăn. Nông dân huyện Quảng Xương (Thanh Hóa), nơi chúng tôi đặt chân đến còn đang đói. Khoai lang vừa bói củ bằng ngón tay đã phải dỡ lên ăn. Người già ốm đau, trẻ con được bát cháo hoa là điều hiếm lắm.”

Ông Bùi Hồng Đô, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Phúc, tặng kỷ vật cho ông Huỳnh Văn Thòn và bà Nguyễn Thế Thanh, đại diện Ban liên lạc Học sinh miền Nam nhân khai mạc trưng bày "Học sinh miền Nam trên đất Bắc" tại Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh ngày 17/5/2024. (Ảnh: Nguyễn Á)

Vậy mà học sinh miền Nam luôn được ưu tiên ăn cơm trắng, cá kho để có sức học tập. Giờ nghỉ, học sinh tăng gia sản xuất, nữ được học thêm nữ công, nam được dạy nghề mộc, nghề điện để có thêm kỹ năng trong cuộc sống và quan trọng nhất là không có thời gian rảnh rỗi để nhớ nhà hoặc nghĩ ra các trò nghịch ngợm, quậy phá. Thỉnh thoảng, đội chiếu bóng lưu động còn chiếu phim cho học sinh các trường miền Nam cùng xem, như là một hoạt động ngoại khóa.

Bà Nguyễn Thế Thanh (sinh năm 1953, nguyên Phó Giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, con gái Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nguyễn Thế Truyện) còn nhớ khoảng thời gian đi sơ tán ở Vĩnh Phúc, ở nhờ nhà người dân trong khoảng một năm. Trong nhà chỉ có hai chiếc chõng tre, chủ nhà nhường chiếc chõng lớn cho hai cô học trò miền Nam là Thanh và Mai, còn hai mẹ con chủ nhà nằm trên chiếc chõng nhỏ.

Những cậu học sinh miền Nam trưởng thành và gặt hái thành công ở nhiều lĩnh vực sản xuất công nghiệp, hải quan, tàu biển... (Ảnh tư liệu)

“Tôi nhớ những năm ấy miền Bắc vừa chi viện cho tiền tuyến lớn, vừa chống chiến tranh phá hoại nên đời sống rất khó khăn. Bà con thường xuyên phải ăn cơm độn khoai, sắn. Một hôm, đi học về tôi thấy có hai bát cơm trắng trong lồng bàn mà không dám ăn. Cô chủ nhà bèn bảo đó là cơm phần cho tôi và bạn Mai. Tôi xúc động nhớ mãi không quên ân tình đó,” bà Thanh kể.

Trong số học sinh miền Nam cũng có những bạn trai nghịch ngợm, đi đào trộm khoai, bắt trộm gà nhưng người dân đều bỏ qua, bởi họ thương những đứa trẻ sớm phải xa quê hương, bởi bố mẹ chúng còn đang chiến đấu nơi chiến trường miền Nam.

“Người miền Bắc lúc đó cũng đói khổ mà vẫn sẵn lòng nhường cơm sẻ áo cho học sinh miền Nam. Nếu không có tình thương tự đáy lòng thì sẽ không có sự bao bọc con em miền Nam như thế và chúng tôi cũng không thể có ngày hôm nay. Bản thân chúng tôi cũng nhớ lời dạy ‘đoàn kết’ của Bác Hồ mà thương yêu nhau không phân biệt Nam-Bắc,” bà Thanh tâm sự.

Bà Trần Tố Nga, nguyên phóng viên Thông tấn xã Giải phóng, cũng có suy nghĩ như vậy. Bà cho hay học sinh miền Nam đã học cách yêu thương, tôn trọng lẫn nhau, yêu quê hương đất nước, phải sống trung thực, chia sẻ với tập thể, đoàn kết với nhau và đoàn kết với đồng bào miền Bắc.

Bà nói: “Chúng tôi chưa từng giành nhau cái gì mà ngược lại, còn chia nhau từng hạt muối, con cá, những tâm sự vui buồn. Năm tôi học lớp 7, có em lớp 6 khóc hết nước mắt khi nhận tin ba ở miền Nam bị địch bắt. Chúng tôi đến bên, đứa nào cũng khóc theo, xem đó là nỗi đau buồn của mình.”

Có học sinh miền Nam còn lén giấu cơm vào vạt áo để đưa qua hàng rào cho các bạn người miền Bắc cùng trang lứa với mình hoặc dành phần cá kho để mời bà con miền Bắc nhưng đều bị từ chối với lý do: “Các con là học sinh miền Nam ra đây, cần ăn uống đầy đủ để học hành. Không phải lo cho cô bác.”

Với học sinh miền Nam, hai chữ “biết ơn” đồng bào miền Bắc được họ ghi lại nhiều lần trong nhật ký, in sâu trong trái tim họ suốt nhiều năm và giờ đây, những mái đầu bạc vẫn không nén được sự xúc động khi nhắc đến hai chữ này./.

Niềm vui ngày gặp mặt của các học sinh trường miền Nam trên đất Bắc. (Ảnh: Nguyễn Á)

 

Theo vietnamplus.vn

 

Đại lễ 30/4 - Đất nước trọn niềm vui

​Chúng ta đang cùng nhau sống lại những giờ phút lịch sử trọng đại, kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025). Mốc son chói lọi này đang được khắc sâu trong tim mỗi người con đất Việt, và niềm xúc động ấy lan tỏa diệu kỳ trên mọi miền Tổ quốc, đặc biệt rực cháy tại TP. Hồ Chí Minh - thành phố vinh dự và tự hào được mang tên vị lãnh tụ kính yêu.

Huyện Vĩnh Lợi: Sôi nổi chuỗi hoạt động chào mừng 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Thiết thực chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025) và Ngày Quốc tế Lao động (1/5), huyện Vĩnh Lợi đã tổ chức Giải đua xuồng ba lá năm 2025 trong không khí phấn khởi, sôi nổi và đậm đà bản sắc văn hóa Nam Bộ.

Viết tiếp truyền thống vùng đất anh hùng - vững bước hội nhập và phát triển cùng đất nước

Cách đây 50 năm, ngày 30/4/975, Bạc Liêu giành lại chính quyền, góp phần cùng quân và dân cả nước hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, đem lại hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất đất nước và hạnh phúc cho Nhân dân.

Bạc Liêu 50 năm: Từ chiến trường đến những công trình thế kỷ

Nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày non sông thu về một mối - hành trình 50 năm là một bản hùng ca về ý chí kiên cường, sức sáng tạo và khát vọng vươn lên của Bạc Liêu khi đã biến những vùng đất từng nhuốm màu khói lửa thành những công trình, dự án mang tầm vóc thế kỷ, làm thay đổi diện mạo quê hương một cách ngoạn mục.

Sức sống mới ở những vùng căn cứ cách mạng

​Bạc Liêu có nhiều vùng đất từng là chiến trường ác liệt, oằn mình dưới mưa bom bão đạn, nhưng sau 50 năm thống nhất đất nước đã trở thành những địa phương đi đầu trong phong trào xây dựng nông thôn mới (NTM), NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu. Cuộc sống người dân nơi đây ngày càng ấm no, hạnh phúc, giữ vững truyền thống cách mạng và hướng tới phát triển bền vững.

Thế hệ sinh năm 1975: Trưởng thành cùng quê hương Bạc Liêu

Những ngày này, cả nước đang hân hoan hướng về kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025). Trong dòng chảy lịch sử đặc biệt ấy, có một thế hệ được sinh ra đúng vào thời khắc thiêng liêng của dân tộc.

Đại thắng mùa Xuân 1975: Minh chứng thuyết phục về sức mạnh đoàn kết dân tộc

​Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta.

50 năm - Bạc Liêu chuyển mình theo sự phát triển của đất nước

​(Phát biểu của Chủ tịch UBND tỉnh - Phạm Văn Thiều tại họp mặt kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025)

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp chặt chẽ các mặt đấu tranh giải phóng tỉnh Bạc Liêu (30/4/1975) không đổ máu

​Đại thắng mùa Xuân năm 1975 ở tỉnh Bạc Liêu là kết quả của quá trình lãnh đạo của Đảng bộ trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu đã lãnh đạo, chỉ đạo công tác đại đoàn kết dân tộc một cách tài tình và xuất sắc, phối hợp chặt chẽ lực lượng tôn giáo, dân tộc và cách mạng trong các ngày của tháng Tư lịch sử để Đảng bộ và nhân dân Bạc Liêu giành lại chính quyền từ tay chính quyền Sài Gòn sớm hơn các tỉnh trong đồng bằng sông Cửu Long và không đổ thêm máu.

Những thắng lợi tạo đà cho Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử

Chiến thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 30/4/1975 góp phần kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta; đánh dấu bước phát triển tới đỉnh cao của nghệ thuật chiến dịch Việt Nam, trong đó, nghệ thuật tạo sức mạnh về lực lượng và thế trận là những nét đặc sắc tiêu biểu.