ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 17-8-25 23:16:22
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Dì tôi - Người đàn bà đi qua hai cuộc kháng chiến

Báo Cà Mau Trước đây không lâu, Báo Cà Mau có đăng bài viết về chuyện bà Hai Ðầm tham gia trận diệt đồn Tân Bằng năm 1946. Trong trận đánh táo bạo này, bà được Chi bộ Thới Bình cài vào đồn giặc Pháp làm nội gián để cùng bộ đội ta thực hiện phương án “nội công ngoại kích”. Bài viết theo lời kể của ông Huỳnh Văn Tứ ở thị trấn Thới Bình, người cùng thế hệ và có mối quan hệ thân tộc với bà Hai Ðầm.

Minh hoạ: LÝ KIỀU LOAN

Minh hoạ: LÝ KIỀU LOAN

Ông Tứ cũng cho biết là giai đoạn sau này, thời kháng chiến chống Mỹ, ông không rõ tin tức của bà Hai Ðầm. Vì vậy, với những thông tin tôi biết, cùng với khoảng thời gian tôi sống cùng gia đình bà, bài viết này, tôi xin được kể tiếp câu chuyện về bà Hai Ðầm trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và sau ngày miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất.

Tôi gọi bà Hai Ðầm bằng dì Hai. Tên họ đầy đủ của dì là Trịnh Thị Hai. Dì thứ hai, còn má tôi là em kế của dì. Dì Hai sinh năm 1926, nghĩa là khi tham gia trận đánh đồn Tân Bằng, dì đang độ tuổi hai mươi thời con gái. Trong ba người con của ngoại, dì Hai là người gan lì nhất, lanh lợi nhất, nhưng gương mặt có nét duyên thầm. Không biết có phải vì dì mang nét duyên ấy không, mà cuộc đời dì là những chặng đường tình duyên trắc trở, qua mấy lần đò...

Sau này khi tôi lớn lên, được ông bà tôi, thỉnh thoảng chính dì cũng kể lại cho tôi nghe về trận đánh đồn Tân Bằng hồi đó. Theo dì, thời kháng chiến chống Pháp, những người ở tuổi thanh xuân như dì, đâu kể nam hay nữ, tham gia chống giặc ngoại xâm là lẽ đương nhiên và rất đỗi bình thường. Do đó, sự háo hức và lòng quyết tâm được trực tiếp tham gia vào trận đánh để giết giặc, xua tan nỗi lo và sự hồi hộp, dù với nhiệm vụ được giao, dì không được trang bị loại vũ khí nào trong tay. Chỉ có loại vũ khí duy nhất nhưng không kém phần lợi hại, là bằng sắc đẹp con gái tuổi đôi mươi của dì, làm cho giặc không chú ý đề phòng, lơ là, mất cảnh giác. Sau trận đánh đồn Tân Bằng, dì vẫn tiếp tục tham gia công tác ở địa phương trong kháng chiến chống Pháp và mang bí danh “Hai Ðầm” từ đó.

Vừa qua cuộc kháng chiến chống Pháp rồi lại đến kháng chiến chống Mỹ. Khi tôi lớn lên, bom đạn chiến tranh đã lan đến vùng ven thị trấn. Gia đình tôi và gia đình dì Hai cùng về nương tựa trong ngôi nhà của ngoại ở Rạch Ông, thị trấn Thới Bình. Thời gian này, tôi biết dì vẫn tham gia hoạt động cách mạng. Không lâu sau, con trai của dì với người chồng đầu tiên, thoát ly làm du kích và hy sinh trong lần bị giặc phục kích khi đột nhập ấp chiến lược. Tôi còn nhớ anh là anh Hai Trực, bí danh Hai Phú.

Một thời gian sau, dì sống với ông Chín, người chồng kế tiếp của dì. Hằng ngày, dì Hai cùng bà con trong xóm bơi xuồng vô rừng các con kinh số 1, số 2... bên kia Sông Trẹm để đốn củi, rồi về cưa, chẻ, bó thành từng bó để chở ra chợ Thới Bình bán.

Những chuyến đi rừng của dì đồng thời cũng là làm nhiệm vụ của đường dây liên lạc với cách mạng. Khi đi mang theo đạn dược hoặc thuốc men, nhu yếu phẩm do đường dây từ ngoài thị trấn tiếp tế cho chiến khu; khi về xuồng chở đầy cây tràm, còn dì mang theo những chỉ thị từ chiến khu về truyền đạt nhiệm vụ cho cơ sở nội thành, có khi còn mang cả tài liệu.

Chính quyền Việt Nam Cộng hoà khi ấy biết dì là “Việt cộng nằm vùng”, nhưng dì vốn lanh lợi, thông minh, biết ứng phó với mọi tình huống, nên dù chúng ráo riết theo dõi để bắt, hòng lần ra cả đường dây hoạt động, nhưng không tìm được bằng chứng.

Vào khoảng năm 1971, giai đoạn Mỹ và quân đội Sài Gòn mở Chiến dịch “Nhổ cỏ U Minh”, làm hoạt động tiếp tế của ta rất khó khăn. Chúng theo dõi và tổ chức bắt bớ những người nghi ngờ trong đường dây hoạt động bí mật ở vùng bị chiếm đóng.

Năm ấy, dì Hai bị giặc bắt và giam giữ mấy tháng trời. Dù bị giam cầm, tra trấn nhưng dì không khai và cũng không có chứng cứ nên cuối cùng cũng được thả. Lúc dì bị bắt là khi đang mang thai, rồi sinh nở ở trong tù. Ðó là người con gái út của dì, dì đặt tên là Hận - Tuyết Hận.

Khi ra tù, biết khó có thể tham gia hoạt động cách mạng ở quê nhà, nên cả gia đình dì âm thầm rời khỏi Thới Bình. Bà con không rõ tin tức của gia đình dì Hai từ đó. Mãi cho đến ngày giải phóng, chiến tranh kết thúc, dì mới có dịp trở về thăm quê... Lúc đó, mọi người mới biết là khoảng thời gian ấy gia đình dì lên Ðịnh Quán ở, tại thị trấn cây số 125, vừa buôn bán để sinh sống và cũng để tìm cách liên lạc, kết nối với cơ sở cách mạng, tiếp tục hoạt động.

Năm sau, chồng mất, dì dắt mấy người con vô tận vùng giải phóng Gia Canh sinh sống và tham gia cách mạng cho đến ngày giải phóng. Khi lên vùng đất này, không ai biết dì là bà Hai Ðầm với trận đánh đồn Tân Bằng thời kỳ kháng chiến chống Pháp, mà nhiều người biết dì với tên gọi là “bà Chín” hoặc “má Chín”.

Vùng Gia Canh cách thị trấn Ðịnh Quán hơn 10 km. Ðường vào Gia Canh chủ yếu là lội bộ. Bắt đầu từ Phú Hoa (cây số 115) qua khu vực đất rẫy của người Hoa Nùng chừng hai cây số, sau đó đi theo đường be sình lầy gần chục cây số nữa. Gia Canh khi ấy là cánh đồng khoảng trên dưới 100 ha, chung quanh bao bọc bởi rừng già. Dưới tán rừng rải rác những ngôi nhà nhỏ đơn sơ, lợp bằng lá trung quân, vách bằng tre nứa của hàng trăm hộ dân trong vùng. Cánh đồng là nơi trồng lúa vào mùa mưa. Ði sâu vào rừng, hướng giáp Bình Thuận là căn cứ của bộ đội và các cơ quan tỉnh, huyện. Dì Hai tôi sống mấy năm ở vùng đất Gia Canh này.

Vào thời gian đó, ba đứa con trai sau này của dì đều lần lượt vào bộ đội, trong đó, có người chung đơn vị với Ðại tá, Nhà văn Chu Lai... Dì hoạt động trong đường dây hậu cần của Tỉnh đội Tân Phú - thời gian từ năm 1973-1976, huyện Ðịnh Quán thuộc tỉnh Tân Phú, do Trung ương cục miền Nam thành lập. Theo những nhu cầu thuốc men, nhu yếu phẩm của bộ đội và các cơ quan trong chiến khu mà dì liên hệ với những người thợ rừng đi khai thác gỗ chuyển vào. Dì được coi như “người nhà” của cơ quan Tỉnh đội, cả trong thời chiến tranh và khi mới vừa giải phóng. Dì đi dâu cũng vậy, bộ đội hay cán bộ ở huyện thường gọi dì là “má Chín” hoặc “bà Chín”. Có những người con nuôi của dì là cán bộ của Huyện đội, Tỉnh đội sau này trưởng thành, làm lãnh đạo của Tỉnh đội Ðồng Nai, như anh Ba Danh...

Sau ngày giải phóng, gia đình dì ra ở tại cây số 114, Quốc lộ 20, thuộc Ðịnh Quán. Nghe theo lời dì, tôi khăn gói từ quê nhà lên Ðịnh Quán, vào Gia Canh tiếp quản ngôi nhà lợp lá trung quân của dì và thửa ruộng gần 1 ha để làm anh nông dân thứ thiệt. Nhưng chưa xong một mùa lúa, trước yêu cầu dạy chữ cho trẻ em trong vùng kháng chiến cũ, dì nói với tôi là con có chút ít chữ nghĩa nên đi làm giáo viên dạy học cho tụi nhỏ ở đây. Trong chiến tranh, đám trẻ con đâu được học hành gì, nên chịu nhiều thiệt thòi... Vậy là tôi làm giáo viên, rồi sau tiếp tục chuyển các công việc khác. Tôi từ giã vùng đất Gia Canh chưa đầy hai năm tính từ ngày tôi đến. Sau này chuyển ra thị trấn Ðịnh Quán đi dạy, tôi vẫn tiếp tục ở tại nhà dì...

Về phần dì Hai, khi ra Quốc lộ 20, Ðịnh Quán một thời gian, được chính quyền địa phương giúp đỡ, dì làm đầu mối khai thác gỗ cho ngành lâm nghiệp của huyện. Ba người con của dì đi bộ đội, sau chiến tranh may mắn được an toàn trở về và lần lượt ra quân, bắt đầu công việc làm ăn lo cho cuộc sống gia đình.

Sau thời gian khai thác gỗ, dì cất được ngôi nhà gỗ. Cuộc sống tuổi về chiều của dì tưởng đã được an yên, dì có thể an hưởng tuổi già sau gần một đời gian lao, vất vả và cả những mất mát khi trải qua hai cuộc kháng chiến. Nhưng khi Nhà nước đóng cửa rừng, công việc khai thác gỗ cũng kết thúc. Gia đình dì lại chuyển chỗ ở để tìm đất làm rẫy sinh sống. Dì bán ngôi nhà gỗ rồi vào xã Phú Tân, cũng thuộc huyện Ðịnh Quán, cách thị trấn khoảng hơn chục cây số về phía sông Ðồng Nai, mua đất, cất ngôi nhà nhỏ và sinh sống bằng nghề làm rẫy. Mà làm rẫy thì cũng phải biết nghề, trong khi dì và bảy người con trong những năm sống ở vùng Ðịnh Quán này, lớn lên trai thì đi bộ đội, con gái thì chỉ biết làm việc nhà hoặc canh tác trên thửa ruộng ở cánh đồng Gia Canh cùng dì... Vì thế, làm rẫy trong thời gian đầu, gia đình dì cũng chỉ đủ sống qua ngày.

Rồi dì bị bệnh mất, hưởng thọ 66 tuổi. Những vất vả, gian truân trong phần lớn thời gian cuộc đời dì qua hai cuộc kháng chiến và những trận đòn trong nhà tù thời Việt Nam Cộng hoà đã để lại di chứng tổn hại sức khoẻ của dì.

Tôi có lên xã Phú Tân vài lần vào dịp giỗ dì. Nhìn ngôi mộ dì Hai nằm lẻ loi bên rìa đám rẫy, chung quanh rải rác những tảng đá ong mà không khỏi chạnh lòng. Vùng đất Ðịnh Quán này, từ lâu dì và thế hệ của những người con đã chọn làm quê hương...

 

Nguyễn Sông Trẹm

 

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài cuối: Hành động để đổi mới, vươn xa 

Nghị quyết 68 đã xác định những mục tiêu chiến lược, nhưng mục tiêu ấy không thể biến thành hiện thực nếu khâu tổ chức thực hiện thiếu sự tập trung, quyết liệt. Để nghị quyết thực sự đi vào đời sống xã hội một cách thực chất, trở thành nền tảng, động lực và khơi dậy khát vọng, thành tựu phát triển của khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) trong kỷ nguyên vươn mình, cần lộ trình hành động rõ ràng và quyết tâm cao độ. 

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài 3: Cơ hội vàng để kinh tế tư nhân cất cánh

Những nội dung mang tính đột phá của Nghị quyết 68 được kỳ vọng sẽ tạo cú huých lớn cho kinh tế tư nhân (KTTN) phát triển mạnh mẽ. Sự đồng hành, hỗ trợ và kiến tạo của Nhà nước sẽ là "chất xúc tác" để khu vực KTTN phát huy tối đa tiềm năng, bứt phá, đóng góp to lớn hơn vào sự thịnh vượng và phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài 2: "Đêm trước" Nghị quyết 68

Trước khi Nghị quyết 68 ra đời, trên địa bàn tỉnh Cà Mau, hộ kinh doanh cá thể (KDCT), doanh nghiệp (DN) nhỏ/siêu nhỏ cùng lúc đứng trước 2 vấn đề tưởng chừng mâu thuẫn với nhau, đó là "chưa thể lớn" và "chưa chịu lớn", thế nhưng chúng lại liên quan chặt chẽ nhau, phản ánh thực tại bức tranh cộng đồng DN nhỏ/siêu nhỏ và các hộ KDCT của tỉnh.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng"

Trong giai đoạn “sắp xếp lại giang sơn”, Nghị quyết 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 (Nghị quyết 68) về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) được Bộ Chính trị ban hành. Với tinh thần xoá bỏ định kiến, tạo điều kiện đột phá, Nghị quyết 68 là sự khẳng định mạnh mẽ của Đảng về vai trò then chốt, động lực quan trọng hàng đầu của khu vực KTTN trong tiến trình phát triển đất nước. Ví như câu chuyện về Thánh Gióng trong truyền thuyết xưa, Nghị quyết 68 đã cung cấp đầy đủ điều kiện chín muồi để KTTN đủ sức chuyển hoá thành những thành tựu phát triển rực rỡ, kỳ diệu của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình.

Yêu Tổ quốc từ phía Trường sa

Trong những ngày cả nước hướng về kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, nhìn trên bản đồ phía biển Đông - nơi 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa máu thịt của Việt Nam sừng sững hiên ngang trước muôn trùng sóng gió và kẻ thù, lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc trong mỗi người sẽ cuồn cuộn dâng trào.

Hơn 30.000 đóa hoa bất tử!

Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ cứu nước, với lòng yêu quê hương và căm thù giặc sâu sắc, lớp lớp người con ưu tú của Cà Mau đã tham gia cách mạng, hăng hái chiến đấu, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh để giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc.

Phát huy sức trẻ sau tinh gọn bộ máy - Bài cuối: Tâm thế vững vàng, sẵn sàng thích ứng

Sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy, tổ chức Đoàn - Hội ở Cà Mau đối mặt với nhiều thách thức như: giảm nhân sự, tăng áp lực công việc; khan hiếm nguồn cán bộ kế cận; phong trào thanh niên một số nơi rơi vào trầm lắng... Nhận diện những thách thức này, cán bộ Đoàn - Hội "hiến kế" nhiều giải pháp đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với thực tiễn của địa phương để nâng cao năng lực đội ngũ và phát triển phong trào.

Tôi luyện bản lĩnh thời kỳ chuyển mình

Thời kỳ mới, công tác huấn luyện tân binh trong lực lượng vũ trang, đặc biệt là cảnh sát cơ động và phòng cháy, chữa cháy, được chú trọng đổi mới toàn diện, sát thực tế, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao.

Phát huy sức trẻ sau tinh gọn bộ máy - Bài 2: Thách thức trong tình hình mới

Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị là chủ trương đúng đắn, cần thiết và đã được triển khai thực hiện sâu rộng từ Trung ương đến cơ sở. Ở một lát cắt riêng, tổ chức Đoàn - Hội các cấp của tỉnh Cà Mau đang đối mặt với không ít thách thức khi mà tinh gọn về “lượng” chưa đồng nghĩa với tăng trưởng về “chất”.

Phát huy sức trẻ sau tinh gọn bộ máy - Bài 1: Xung kích, đi đầu

LTS: Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;Tuy nhiên, ột câu hỏi lớn đang đặt ra là: Làm thế nào để tiếp tục xây dựng thế hệ thanh niên ưu tú, thực sự là nguồn nhân lực tương lai chất lượng trong bối cảnh tinh gọn tổ chức bộ máy;hệ thống chính trị, vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, góp phần thực hiện tốt công cuộc phát triển kinh tế - xã hội đất nước, phát triển quê hương Cà Mau.