ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 17-8-25 10:10:22
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng Nam Quốc lộ 1A: Những bất cập cần được tháo gỡ

Báo Cà Mau

Bài 2: Khó khăn, bất cập do đâu?

Bài 1: Tình hình mới, quy hoạch cũ

Kênh mương bồi lắng quá nhanh, thiếu kinh phí nạo vét, bế tắc bài toán xử lý phù sa, chưa tạo ra được nguồn nước ngọt bổ sung để pha loãng nước mặn nuôi tôm khiến người dân khai thác nước ngầm quá mức cho phép… là những gì khó khăn, bất cập mà vùng Nam Quốc lộ (QL) 1A đang phải đối mặt. Có những bất cập được ngành Nông nghiệp đưa ra giải pháp tháo gỡ, nhưng cũng có những bất cập tỉnh phải chọn giải pháp “sống chung”, bởi nó là một quy luật tự nhiên không thể làm thay đổi được.

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Đào Xuân Ngọc (bìa trái) khảo sát quy hoạch một số công trình thủy lợi lớn tại Bạc Liêu.

Bất cập bắt nguồn từ thiên nhiên

Khi nói đến chuyện khó khăn, bất cập về hệ thống thủy lợi trong nuôi trồng thủy sản (NTTS) vùng Nam QL1A của tỉnh, các chuyên gia trong ngành Nông nghiệp đều khẳng định rằng: cơ bản là thiếu kinh phí đầu tư, nhưng không phải cái gì có tiền cũng đều làm được. Ông Lương Ngọc Lân, Giám đốc Sở NN&PTNT cho rằng: “Một số khó khăn về thủy lợi cho NTTS là do kinh phí đầu tư hạn hẹp. Song, có những bất cập không phải do chúng ta thiếu cái nhìn, mà do vùng Nam QL1A nằm ở vị trí địa lý đặc thù và dòng hải lưu kiến tạo”. Đó là do gần biển, hàm lượng phù sa cao, phần lớn kênh cấp II lại nằm song song với bờ biển nên tốc độ bồi lắng nhanh, cứ sau 2 - 3 năm nạo vét đã bị bồi lắng trở lại. Điều này tỉnh đã nhận thấy từ lâu nhưng chúng ta không thể ngăn cản được quy luật tự nhiên này. Và vấn đề phù sa được tỉnh xác định là bất cập lớn nhất, gây nên khó khăn rất nhiều về nguồn nước phục vụ NTTS (chủ yếu là tôm sú).

Các tỉnh ven biển có diện tích nuôi tôm và kể cả các nhà khoa học đều đang bế tắc với bài toán ngăn cản phù sa. Bởi lẽ, việc cấp thoát nước cho NTTS vùng Nam của tỉnh hiện nay đều qua hệ thống kênh hở, tiếp cận trực tiếp với ảnh hưởng của thủy triều biển Đông. Và nhiều tỉnh (trong đó có Bạc Liêu) đã chọn phương án “sống chung” với nó mà không bao giờ nghĩ tới chuyện phải lọc hay lắng phù sa này. Người ta xác định, chi phí cho việc nạo vét kênh thủy lợi giống như chi phí phân bón, thuốc trừ sâu mà người trồng lúa phải sử dụng. Việc nạo vét kênh thủy lợi là phải đưa vào hệ thống chi tiêu sản xuất.

Tuy nhiên, ngành NN&PTNT tỉnh cũng khẳng định, việc đưa phù sa vào một khu vực nào đó theo ý muốn của mình để hạn chế xâm nhập vào khu vực NTTS là giải pháp tối ưu mà tỉnh đang tính đến. Định hướng của tỉnh về lâu dài là 24 cửa sông, kênh, rạch thông ra biển nằm dọc đê biển hiện nay đều được đóng lại thông qua hệ thống cống. Việc lấy nước NTTS chỉ cho vào từ một cửa Gành Hào, từ đó phù sa sẽ lắng tụ ở một dòng kênh nào đó để việc nạo vét được dễ dàng hơn.

Một bất cập khác cho NTTS ở vùng Nam QL1A mà Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam xác định là do chưa tạo được nguồn nước ngọt bổ sung để pha loãng nước mặn nuôi tôm nên người dân đã khai thác nước ngầm quá mức cho phép. Tại khu vực này, tầng nước ngầm đã bị cạn kiệt và đang có nguy cơ bị ô nhiễm nặng. Vì vậy, phương án mà Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam đưa ra là Bạc Liêu cần xây dựng hai âu thuyền nằm trên kênh xáng Cà Mau - Bạc Liêu để chuyển nước ngọt từ vùng Bắc QL1A vào vùng Nam, giải quyết bài toán khủng hoảng nước ngọt.

Kênh xáng Bạc Liêu - Cà Mau dẫn nước phục vụ NTTS đã 15 năm chưa được nạo vét. Ảnh: T.Đ

Khó khăn do thiếu kinh phí

Bất cập và cốt lõi nhất về hệ thống thủy lợi vùng Nam QL1A hiện nay là xử lý phù sa. Nhưng quan trọng hơn vẫn là kinh phí đầu tư cho việc thực hiện giải pháp xây dựng công trình thủy lợi (cống, âu thuyền…). Ông Lai Thanh Ẩn, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh, đánh giá: “Việc xã hội hóa công tác nạo vét và xây dựng công trình thủy lợi hiện nay là vô cùng khó khăn. Người dân không muốn đóng góp kinh phí cho thủy lợi, thủy nông nội đồng. Dù biết rằng không phải quá khó và cũng không lớn, nhưng hầu hết họ đều dựa dẫm, ỷ lại vào sự đầu tư của Nhà nước”. Theo ông Ẩn, ngoại trừ những trục kênh chính, các kênh rạch còn lại nếu Nhà nước và nhân dân cùng nhau thực hiện nạo vét định kỳ thì hệ thống thủy lợi của Bạc Liêu sẽ tốt hơn hiện nay rất nhiều.

Còn ông Lương Ngọc Lân, Giám đốc Sở NN&PTNT cho biết, trong điều kiện ngân sách của tỉnh hạn hẹp như hiện nay, trung bình một năm, kinh phí tỉnh dành cho nạo vét kênh mương chỉ khoảng 50 tỷ đồng. Từ thực tế này, công tác thủy lợi của tỉnh chỉ thực hiện theo phương châm “có tiền đến đâu, thực hiện đến đó”. Riêng các công trình thủy lợi chống biến đổi khí hậu và việc nạo vét các tuyến kênh từ cấp II trở lên là hoàn toàn dựa vào ngân sách Nhà nước xin từ Trung ương.

Tuy nhiên, mỗi năm tỉnh cũng được Trung ương rót thêm khoảng 200 tỷ đồng để đầu tư cho công tác thủy lợi, nhưng không phải chỉ dành cho kênh mương mà bao gồm tất cả các công trình như: cống, kênh, mương, đê, kè, cầu thủy lợi… Chính sự dàn trải kinh phí này dẫn đến tiến độ thực hiện các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh diễn ra rất chậm và không biết bao giờ mới đáp ứng kịp nhu cầu của thực tiễn NTTS. Riêng năm 2012, do thực hiện chủ trương thắt chặt chi tiêu công nên tỉnh chưa được ghi vốn đồng nào đối với những công trình sử dụng vốn Trung ương.

Ông Lương Ngọc Lân cũng khẳng định, với hệ thống công trình từ thời Pháp để lại, kể cả kênh Cà Mau - Bạc Liêu (tuyến kênh huyết mạch quan trọng cho cả lưu thông đường thủy và cung cấp nước cho NTTS) từ khi tách tỉnh đến nay vẫn chưa một lần nạo vét. Trong khi đó, nếu đáp ứng được nhu cầu về thủy lợi phục vụ NTTS, mỗi năm, Bạc Liêu phải cần đến vài ngàn tỷ đồng…

Tấn Đạt

Kỳ tới: Giải pháp cho thủy lợi phục vụ NTTS bền vững


* Các dự án thủy lợi cho vùng Nam QL1A thuộc Chương trình chống biến đổi khí hậu đang được đề xuất đầu tư vốn

1. Dự án cải tạo, nâng cấp hệ thống đê biển và đê sông Bạc Liêu (Chương trình 667): Tổng vốn đầu tư 2.500 tỷ đồng. Thời gian thực hiện: 2012 - 2020.

2. Dự án chuyển nước ngọt từ vùng Bắc QL1A sang vùng Nam QL1A: Tổng vốn đầu tư: 2.000 tỷ đồng. Thời gian thực hiện: 2015 - 2020.

3. Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp vùng Nam QL1A (bao gồm các tiểu dự án):

- Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp xã Vĩnh Hậu (huyện Hòa Bình). Quy mô 5.280ha.

- Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp xã Vĩnh Thịnh (huyện Hòa Bình). Quy mô 2.700ha.

- Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp xã Long Điền Đông - Long Điền Tây (huyện Đông Hải). Quy mô khoảng 4.000ha.

- Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp xã Vĩnh Trạch, Hiệp Thành (TP. Bạc Liêu). Quy mô 3.020ha.

Tổng vốn đầu tư cho các tiểu dự án này 667 tỷ đồng. Thời gian thực hiện: 2012 - 2015

* Một số dự án thủy lợi trọng điểm ở vùng Nam QL1A nằm trong quy hoạch thủy lợi ĐBSCL định hướng đến năm 2020, do Bộ NN&PTNT làm chủ đầu tư:

1. Kè Gành Hào: Tổng vốn đầu tư: 277 tỷ đồng. Dự án đang được triển khai thực hiện.

2. Hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi tôm Long Điền - Đông Hải: Hồ sơ thiết kế đã được Bộ NN&PTNT bàn giao cho Sở NN&PTNT tỉnh tiếp tục xem xét đầu tư.

3. Hệ thống thủy lợi phục nuôi tôm Tắc Vân - Cái Keo: Hồ sơ thiết kế đã được Bộ NN&PTNT bàn giao cho Sở NN&PTNT Bạc Liêu tiếp tục xem xét đầu tư.

4. Xây dựng 2 ô thủy lợi phục vụ NTTS Bạc Liêu:

- Ô thủy lợi Chùa Phật - Cái Cùng. Nguồn vốn ước tính: 67,04 tỷ đồng.

- Ô thủy lợi Cái Cùng - Huyện Kệ. Nguồn vốn ước tính: 24 tỷ 267 triệu đồng.

Dự án đang được triển khai thực hiện.

T.Đ (tổng hợp)

Nông dân kỳ vọng giá lúa giữ đà tăng

Vụ lúa hè thu ở nhiều địa phương tỉnh đang vào giai đoạn trổ chín, dự kiến thu hoạch giữa tháng 8. Sau thời gian giá thấp, từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 8/2025, giá lúa bắt đầu tăng nhẹ, tạo tín hiệu tích cực cho nông dân.

Phát huy tiềm năng carbon xanh

Sáng 7/8, tại xã Đất Mới, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh Cà Mau tổ chức Hội thảo thiết kế dự án đánh giá tính khả thi để thiết kế, đề xuất dự án tín chỉ carbon xanh.

Phong Hiệp vươn lên với nhiều mô hình kinh tế hiệu quả

Trong quá trình xây dựng nông thôn mới, ở xã Phong Hiệp xuất hiện nhiều mô hình sản xuất hiệu quả, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người dân. Nổi bật là các mô hình chăn nuôi và chế biến thuỷ sản, thể hiện tinh thần vượt khó, dám nghĩ, dám làm của nông dân và phụ nữ địa phương.

Khảo sát các mô hình kinh tế hiệu quả tại xã U Minh

Sáng 6/8, Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch HĐND xã Lê Hồng Thịnh dẫn đầu đoàn công tác có chuyến tham quan, khảo sát các mô hình kinh tế hiệu quả trên địa bàn xã U Minh.

Quảng bá hình ảnh đất và người Cà Mau

Sau thời gian thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) không chỉ làm phong phú thêm hàng hoá mang thương hiệu địa phương mà còn tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người dân nông thôn. Đặc biệt, khi sản phẩm được chứng nhận đạt chuẩn OCOP, cơ hội nâng cao giá trị và mở rộng thị trường được mở ra rõ rệt.

Từ nghề bán vé số đến trại nấm bạc triệu

Trước đây, gia đình anh Nguyễn Văn Phát, ấp Phước Hoà Tiền, xã Phước Long, chủ yếu sống bằng nghề bán vé số, thu nhập bấp bênh. Song, từ khi được Hội Phụ nữ địa phương giới thiệu, hỗ trợ tiếp cận Chương trình sinh kế của Hợp tác xã (HTX) Nấm sạch Hoà Tiền. Anh đã mạnh dạn thử nghiệm mô hình trồng nấm bào ngư xám và nhanh chóng đem lại hiệu quả rõ rệt, thu nhập ổn định, cuộc sống khấm khá hơn.

Nguyễn Việt Khái - Phủ xanh đất mặn, phát triển thủy sản bền vững 

Được hợp nhất từ 3 xã: Tân Hưng Tây, Việt Thắng và Rạch Chèo (huyện Phú Tân cũ), xã Nguyễn Việt Khái không chỉ mở rộng địa giới hành chính mà còn tạo cú hích mạnh mẽ cho kinh tế địa phương, nổi bật ở hai lĩnh vực: nông nghiệp thích ứng trên đất mặn và nuôi trồng thủy sản bền vững.

“Địa chỉ xanh” chuyên canh hoa màu

Từ sáng sớm, không khí tại Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp và tưới tiêu Quyết Tiến (HTX Quyết Tiến, ấp Mỹ I, xã Phước Long) rộn ràng như phiên chợ nhỏ. Người thu hoạch, người phân loại, người bốc xếp bắp, mướp hương lên xe để kịp chuyển hàng đến các chợ đầu mối ở TP Hồ Chí Minh. Mỗi người một tay, nhịp nhàng và hối hả, như chính nhịp thở đầy sức sống của vùng chuyên canh hoa màu đang vươn mình mạnh mẽ.

“Mái ấm” của những hộ nghèo sống ven biển

Vùng bãi bồi ven biển Vĩnh Thịnh (xã Vĩnh Hậu) là nơi mưu sinh của hàng trăm hộ nghèo, đặc biệt là hộ đồng bào dân tộc Khmer. Hợp tác xã nghêu Đồng Tiến (HTX Đồng Tiến), xã Vĩnh Hậu, ra đời đã trở thành điểm tựa vững vàng cho các hộ có hoàn cảnh khó khăn sống ven biển. Những năm qua, HTX không chỉ là nơi tạo việc làm mà còn là “mái ấm” giúp người dân có cuộc sống ổn định, vươn lên thoát nghèo bền vững.

Nỗ lực hồi sinh rừng phòng hộ ven biển, thích ứng biến đổi khí hậu

Trong 2 ngày (29-30/7), Ban Quản lý rừng đặc dụng và Rừng phòng hộ ven biển (thuộc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Cà Mau) phối hợp với Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế tổ chức khảo sát, đánh giá thực trạng trồng và phục hồi rừng phòng hộ ven biển tại xã Vĩnh Hậu, tỉnh Cà Mau. Đồng thời, tập huấn “Nâng cao năng lực cộng đồng về nuôi trồng thủy sản bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu” cho người dân địa phương.