Thứ hai, 29-12-25 14:29:08
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng Nam Quốc lộ 1A: Những bất cập cần được tháo gỡ

Báo Cà Mau

Bài 2: Khó khăn, bất cập do đâu?

Bài 1: Tình hình mới, quy hoạch cũ

Kênh mương bồi lắng quá nhanh, thiếu kinh phí nạo vét, bế tắc bài toán xử lý phù sa, chưa tạo ra được nguồn nước ngọt bổ sung để pha loãng nước mặn nuôi tôm khiến người dân khai thác nước ngầm quá mức cho phép… là những gì khó khăn, bất cập mà vùng Nam Quốc lộ (QL) 1A đang phải đối mặt. Có những bất cập được ngành Nông nghiệp đưa ra giải pháp tháo gỡ, nhưng cũng có những bất cập tỉnh phải chọn giải pháp “sống chung”, bởi nó là một quy luật tự nhiên không thể làm thay đổi được.

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Đào Xuân Ngọc (bìa trái) khảo sát quy hoạch một số công trình thủy lợi lớn tại Bạc Liêu.

Bất cập bắt nguồn từ thiên nhiên

Khi nói đến chuyện khó khăn, bất cập về hệ thống thủy lợi trong nuôi trồng thủy sản (NTTS) vùng Nam QL1A của tỉnh, các chuyên gia trong ngành Nông nghiệp đều khẳng định rằng: cơ bản là thiếu kinh phí đầu tư, nhưng không phải cái gì có tiền cũng đều làm được. Ông Lương Ngọc Lân, Giám đốc Sở NN&PTNT cho rằng: “Một số khó khăn về thủy lợi cho NTTS là do kinh phí đầu tư hạn hẹp. Song, có những bất cập không phải do chúng ta thiếu cái nhìn, mà do vùng Nam QL1A nằm ở vị trí địa lý đặc thù và dòng hải lưu kiến tạo”. Đó là do gần biển, hàm lượng phù sa cao, phần lớn kênh cấp II lại nằm song song với bờ biển nên tốc độ bồi lắng nhanh, cứ sau 2 - 3 năm nạo vét đã bị bồi lắng trở lại. Điều này tỉnh đã nhận thấy từ lâu nhưng chúng ta không thể ngăn cản được quy luật tự nhiên này. Và vấn đề phù sa được tỉnh xác định là bất cập lớn nhất, gây nên khó khăn rất nhiều về nguồn nước phục vụ NTTS (chủ yếu là tôm sú).

Các tỉnh ven biển có diện tích nuôi tôm và kể cả các nhà khoa học đều đang bế tắc với bài toán ngăn cản phù sa. Bởi lẽ, việc cấp thoát nước cho NTTS vùng Nam của tỉnh hiện nay đều qua hệ thống kênh hở, tiếp cận trực tiếp với ảnh hưởng của thủy triều biển Đông. Và nhiều tỉnh (trong đó có Bạc Liêu) đã chọn phương án “sống chung” với nó mà không bao giờ nghĩ tới chuyện phải lọc hay lắng phù sa này. Người ta xác định, chi phí cho việc nạo vét kênh thủy lợi giống như chi phí phân bón, thuốc trừ sâu mà người trồng lúa phải sử dụng. Việc nạo vét kênh thủy lợi là phải đưa vào hệ thống chi tiêu sản xuất.

Tuy nhiên, ngành NN&PTNT tỉnh cũng khẳng định, việc đưa phù sa vào một khu vực nào đó theo ý muốn của mình để hạn chế xâm nhập vào khu vực NTTS là giải pháp tối ưu mà tỉnh đang tính đến. Định hướng của tỉnh về lâu dài là 24 cửa sông, kênh, rạch thông ra biển nằm dọc đê biển hiện nay đều được đóng lại thông qua hệ thống cống. Việc lấy nước NTTS chỉ cho vào từ một cửa Gành Hào, từ đó phù sa sẽ lắng tụ ở một dòng kênh nào đó để việc nạo vét được dễ dàng hơn.

Một bất cập khác cho NTTS ở vùng Nam QL1A mà Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam xác định là do chưa tạo được nguồn nước ngọt bổ sung để pha loãng nước mặn nuôi tôm nên người dân đã khai thác nước ngầm quá mức cho phép. Tại khu vực này, tầng nước ngầm đã bị cạn kiệt và đang có nguy cơ bị ô nhiễm nặng. Vì vậy, phương án mà Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam đưa ra là Bạc Liêu cần xây dựng hai âu thuyền nằm trên kênh xáng Cà Mau - Bạc Liêu để chuyển nước ngọt từ vùng Bắc QL1A vào vùng Nam, giải quyết bài toán khủng hoảng nước ngọt.

Kênh xáng Bạc Liêu - Cà Mau dẫn nước phục vụ NTTS đã 15 năm chưa được nạo vét. Ảnh: T.Đ

Khó khăn do thiếu kinh phí

Bất cập và cốt lõi nhất về hệ thống thủy lợi vùng Nam QL1A hiện nay là xử lý phù sa. Nhưng quan trọng hơn vẫn là kinh phí đầu tư cho việc thực hiện giải pháp xây dựng công trình thủy lợi (cống, âu thuyền…). Ông Lai Thanh Ẩn, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh, đánh giá: “Việc xã hội hóa công tác nạo vét và xây dựng công trình thủy lợi hiện nay là vô cùng khó khăn. Người dân không muốn đóng góp kinh phí cho thủy lợi, thủy nông nội đồng. Dù biết rằng không phải quá khó và cũng không lớn, nhưng hầu hết họ đều dựa dẫm, ỷ lại vào sự đầu tư của Nhà nước”. Theo ông Ẩn, ngoại trừ những trục kênh chính, các kênh rạch còn lại nếu Nhà nước và nhân dân cùng nhau thực hiện nạo vét định kỳ thì hệ thống thủy lợi của Bạc Liêu sẽ tốt hơn hiện nay rất nhiều.

Còn ông Lương Ngọc Lân, Giám đốc Sở NN&PTNT cho biết, trong điều kiện ngân sách của tỉnh hạn hẹp như hiện nay, trung bình một năm, kinh phí tỉnh dành cho nạo vét kênh mương chỉ khoảng 50 tỷ đồng. Từ thực tế này, công tác thủy lợi của tỉnh chỉ thực hiện theo phương châm “có tiền đến đâu, thực hiện đến đó”. Riêng các công trình thủy lợi chống biến đổi khí hậu và việc nạo vét các tuyến kênh từ cấp II trở lên là hoàn toàn dựa vào ngân sách Nhà nước xin từ Trung ương.

Tuy nhiên, mỗi năm tỉnh cũng được Trung ương rót thêm khoảng 200 tỷ đồng để đầu tư cho công tác thủy lợi, nhưng không phải chỉ dành cho kênh mương mà bao gồm tất cả các công trình như: cống, kênh, mương, đê, kè, cầu thủy lợi… Chính sự dàn trải kinh phí này dẫn đến tiến độ thực hiện các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh diễn ra rất chậm và không biết bao giờ mới đáp ứng kịp nhu cầu của thực tiễn NTTS. Riêng năm 2012, do thực hiện chủ trương thắt chặt chi tiêu công nên tỉnh chưa được ghi vốn đồng nào đối với những công trình sử dụng vốn Trung ương.

Ông Lương Ngọc Lân cũng khẳng định, với hệ thống công trình từ thời Pháp để lại, kể cả kênh Cà Mau - Bạc Liêu (tuyến kênh huyết mạch quan trọng cho cả lưu thông đường thủy và cung cấp nước cho NTTS) từ khi tách tỉnh đến nay vẫn chưa một lần nạo vét. Trong khi đó, nếu đáp ứng được nhu cầu về thủy lợi phục vụ NTTS, mỗi năm, Bạc Liêu phải cần đến vài ngàn tỷ đồng…

Tấn Đạt

Kỳ tới: Giải pháp cho thủy lợi phục vụ NTTS bền vững


* Các dự án thủy lợi cho vùng Nam QL1A thuộc Chương trình chống biến đổi khí hậu đang được đề xuất đầu tư vốn

1. Dự án cải tạo, nâng cấp hệ thống đê biển và đê sông Bạc Liêu (Chương trình 667): Tổng vốn đầu tư 2.500 tỷ đồng. Thời gian thực hiện: 2012 - 2020.

2. Dự án chuyển nước ngọt từ vùng Bắc QL1A sang vùng Nam QL1A: Tổng vốn đầu tư: 2.000 tỷ đồng. Thời gian thực hiện: 2015 - 2020.

3. Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp vùng Nam QL1A (bao gồm các tiểu dự án):

- Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp xã Vĩnh Hậu (huyện Hòa Bình). Quy mô 5.280ha.

- Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp xã Vĩnh Thịnh (huyện Hòa Bình). Quy mô 2.700ha.

- Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp xã Long Điền Đông - Long Điền Tây (huyện Đông Hải). Quy mô khoảng 4.000ha.

- Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp xã Vĩnh Trạch, Hiệp Thành (TP. Bạc Liêu). Quy mô 3.020ha.

Tổng vốn đầu tư cho các tiểu dự án này 667 tỷ đồng. Thời gian thực hiện: 2012 - 2015

* Một số dự án thủy lợi trọng điểm ở vùng Nam QL1A nằm trong quy hoạch thủy lợi ĐBSCL định hướng đến năm 2020, do Bộ NN&PTNT làm chủ đầu tư:

1. Kè Gành Hào: Tổng vốn đầu tư: 277 tỷ đồng. Dự án đang được triển khai thực hiện.

2. Hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi tôm Long Điền - Đông Hải: Hồ sơ thiết kế đã được Bộ NN&PTNT bàn giao cho Sở NN&PTNT tỉnh tiếp tục xem xét đầu tư.

3. Hệ thống thủy lợi phục nuôi tôm Tắc Vân - Cái Keo: Hồ sơ thiết kế đã được Bộ NN&PTNT bàn giao cho Sở NN&PTNT Bạc Liêu tiếp tục xem xét đầu tư.

4. Xây dựng 2 ô thủy lợi phục vụ NTTS Bạc Liêu:

- Ô thủy lợi Chùa Phật - Cái Cùng. Nguồn vốn ước tính: 67,04 tỷ đồng.

- Ô thủy lợi Cái Cùng - Huyện Kệ. Nguồn vốn ước tính: 24 tỷ 267 triệu đồng.

Dự án đang được triển khai thực hiện.

T.Đ (tổng hợp)

Vĩnh Mỹ hướng đến sản xuất lúa hữu cơ 

Trước yêu cầu đổi mới nông nghiệp theo hướng bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, sản xuất hữu cơ đang trở thành xu thế tất yếu. Tại xã Vĩnh Mỹ, quá trình chuyển đổi này đang được cụ thể hoá bằng những mô hình sản xuất lúa hữu cơ, gắn với vai trò chủ thể của nông dân, sự đồng hành của chính quyền địa phương và doanh nghiệp, nhằm nâng cao giá trị hạt gạo và phát triển nông nghiệp ổn định, lâu dài.

Hào hứng, lan toả khí thế thi đua

Trong không khí phấn khởi, hào hứng và lan tỏa tinh thần thi đua, Ngày hội Nông thôn mới tỉnh Cà Mau năm 2025 do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức, diễn ra ngày 20/12 tại xã Trần Văn Thời, đã thu hút 15 đội với hơn 200 vận động viên, tuyên truyền viên đến từ 15 xã trên địa bàn tỉnh tham gia.

Cà Mau - Điểm hẹn của những hạt gạo ngon

Dự kiến từ ngày 2-6/2/2026, tỉnh Cà Mau lần đầu tiên trở thành điểm hẹn của những “hạt ngọc trời” khi đăng cai tổ chức “Hội thi gạo ngon vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)”. Không chỉ là cuộc tranh tài về chất lượng hạt gạo, sự kiện còn mang ý nghĩa khẳng định vị thế, mở ra chương mới cho ngành lúa gạo vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc.

Ðưa ngành hàng cua “vươn ra biển lớn”

Ngày 5/12, Sở Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) tỉnh Cà Mau ban hành Kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu cua biển phục vụ xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc. Ðây được xem là bước chuyển quan trọng, đưa ngành hàng cua biển của tỉnh mạnh mẽ "vươn ra biển lớn".

Phát triển sản phẩm OCOP từ vai trò hợp tác xã

Những năm gần đây, kinh tế tập thể, nòng cốt là các hợp tác xã (HTX), ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn tỉnh Cà Mau. Việc tham gia Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) giúp nhiều HTX nâng cao giá trị nông sản, đồng thời thúc đẩy đổi mới tổ chức sản xuất, nâng cao năng lực quản trị, xây dựng thương hiệu và mở rộng thị trường, góp phần thiết thực vào quá trình xây dựng nông thôn mới ở địa phương.

Rừng phòng hộ Vĩnh Hậu: Bảo vệ đê biển và sinh kế người dân

Trải dài gần 20 km dọc tuyến biển Ðông, những cánh rừng mắm, đước, cóc, tra xanh bạt ngàn trên địa bàn xã Vĩnh Hậu không chỉ thực hiện tốt chức năng bảo vệ đê biển mà còn trở thành điểm tựa sinh kế quan trọng cho người dân vùng ven biển. Thời gian qua, rừng phòng hộ nơi đây đã phát huy hiệu quả vai trò “lá chắn xanh”, góp phần giảm thiểu tác động của sóng gió, xói lở, đồng thời tạo điều kiện để người dân khai thác, nuôi trồng thuỷ sản dưới tán rừng theo hướng bền vững.

Ngân hàng đồng hành phát triển kinh tế thuỷ sản

Với lợi thế là “thủ phủ con tôm” của cả nước, Cà Mau đang từng bước chuyển dịch ngành thuỷ sản theo hướng sinh thái, bền vững và gia tăng giá trị. Ðồng hành cùng quá trình này, hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh chủ động triển khai nhiều giải pháp tín dụng phù hợp, góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn, tạo động lực để người dân và doanh nghiệp yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất.

Nhộn nhịp mùa thu hoạch tôm càng xanh

Những ngày cuối năm 2025, nông dân xã Nguyễn Phích rộn ràng vào mùa thu hoạch tôm càng xanh, bà con ai nấy đều phấn khởi vì vụ tôm đạt năng suất cao, cho lợi nhuận khả quan.

Hợp tác xã kiểu mới - Nền tảng của kinh tế nông thôn kiểu mẫu

Xã Vĩnh Thanh hiện có 26 tổ hợp tác (THT), 9 hợp tác xã (HTX) đã và đang củng cố, nâng chất hoạt động theo hướng liên kết sản xuất, kinh doanh theo chuỗi giá trị. Đây là một trong những địa phương của tỉnh tiên phong ứng dụng công nghệ, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, tạo nền tảng xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, từng bước hiện đại.

Kinh tế xanh nâng giá trị nông sản

Thời gian qua, Cà Mau triển khai đồng bộ nhiều chính sách và giải pháp, góp phần nâng cao vị thế của nông sản trên thị trường quốc tế. Nhiều mặt hàng nông sản của tỉnh đang dần khẳng định uy tín, chất lượng trong xu thế thị trường ngày càng khắt khe về truy xuất nguồn gốc, an toàn thực phẩm và sản xuất theo hướng hiện đại, minh bạch, bền vững.