ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 22-11-24 03:56:53
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Hồi sinh “rừng vàng, biển bạc”

Báo Cà Mau Biển cả, sông ngòi, rừng đước, rừng tràm với nguồn lợi thuỷ sản dồi dào chính là một trong những chỉ dấu riêng có để làm nên mảnh đất Cà Mau kỳ thú, hào sảng. Thế nhưng, những ký ức tươi đẹp về ngày hội cá đường, cá dứa, ba khía, cua tôm “minh thiên”, con cá đồng, rùa, rắn huyền thoại trong chuyện kể Bác Ba Phi nay dần nhường lại cho một thực tế nhức nhối, trăn trở: nguồn lợi thuỷ sản của Cà Mau đang dần kiệt quệ. Hồi sinh “rừng vàng, biển bạc”, giữ gìn, tái tạo và phát triển nguồn lợi thuỷ sản đang là vấn đề cấp thiết cho hiện tại, cho cả tương lai của vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc.

Bài 1: Qua rồi thời “tỷ phú biển”

Cà Mau có đường bờ biển dài 254 km, có 3 mặt giáp biển, là 1 trong 4 ngư trường trọng điểm của cả nước về khai thác thuỷ hải sản. Từ nghề “đâm hà bá”, Cà Mau xuất hiện rất nhiều “tỷ phú biển”. Thế nhưng, khoảng 5 năm trở lại đây, nghề được mệnh danh ăn nên làm ra lại đầy rủi ro, bấp bênh. Những “tỷ phú biển” ngày nào giờ chỉ còn chép miệng mà tiếc nhớ một thời vàng son rực rỡ chưa xa.

 

Một thời vàng son

Thị trấn biển Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời, có cửa biển lớn nhất tỉnh Cà Mau. Gặp gỡ những người có thâm niên làm nghề biển lâu nhất ở đây mới cảm nhận đầy đủ về thăng trầm của đời ngư dân. Ðôi mắt hướng ra cửa biển, ông Lê Quốc Hiền, Khóm 5, thị trấn Sông Ðốc, nhớ như in: “Trước đây, khi nói mình là dân Sông Ðốc làm nghề biển thì được ưu ái gắn với mác “Việt kiều biển”. Mà thời đó thu nhập khấm khá thật, mỗi chuyến biển lời vài trăm triệu đồng là chuyện bình thường”.

Nguồn lợi thuỷ sản đang bị giảm dần theo từng năm. (Ảnh minh hoạ).

Thấm thoát hơn 40 năm gắn bó với biển, ban đầu chỉ có 1 phương tiện khai thác, rồi ông tích luỹ đóng thêm 4 phương tiện công suất lớn để vươn khơi. “Thời đó đóng tàu đâu tính bằng tiền mà tính bằng vàng, mỗi chiếc tàu có công suất lớn khai thác vùng khơi có giá trên 100 cây (lượng) vàng. Như các phương tiện của tôi, mỗi chiếc tầm 100-120 lượng vàng. Làm thấy ham lắm, nếu trúng thì chỉ vài con nước là lấy lại vốn rồi”, ông Hiền cho biết.

Ông Nguyễn Văn An, Khóm 3, thị trấn Sông Ðốc, chia sẻ câu chuyện của mình đầy sảng khoái, đúng chất dân xứ biển: “Nếu gọi chúng tôi là tỷ phú cũng không sai, vì mỗi phương tiện đánh bắt của tôi muốn vươn khơi được phải trang bị đầy đủ trang thiết bị, ngư cụ... trên 1 tỷ đồng rồi. Mà nhà tôi tới 8 phương tiện đánh bắt thuỷ sản. Nói thì nhiều vậy, nhưng làm thì phải tích góp để đóng thêm phương tiện, rồi trang bị ngư cụ, sửa sang máy móc cũng không ít, được cái là nghề biển khi ấy có thu nhập tốt”.

Ông Nguyễn Văn Ðấu, ấp Rạch Gốc, xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, vẫn còn tiếc cái thời ra biển là... hốt bạc: “Cá tôm nhiều lắm. Tôi đóng 5, 6 miệng đáy hàng khơi, mỗi lần ra là đổ đầy chiếc ghe mấy tấn, loại nào ít giá trị thì gạt bớt lại xuống biển vì sợ chìm ghe”. “Mùa hội cá dứa, cá đường, ba khía, cứ giơ tay mà hốt là đầy xuồng, đầy ghe, còn cua, tôm thì chỗ nào có sông, có nước là kéo bầy, kéo đàn, bắt không xuể. Sông biển hồi đó như cái hũ gạo, bà con mình cứ vậy, ai cũng như ai ra đó là xúc đem về thôi”, ông Ðấu sôi nổi kể lại chuyện tai nghe, mắt thấy.

Biển... cạn

Câu chuyện của những ngư dân sống chết với biển ở Cà Mau đi từ sôi nổi, hào hứng cho đến cái thở dài thườn thượt nuối tiếc. Chỉ tay về phía có ngôi nhà cao tầng, ông Hiền giọng trầm lắng: “Suốt mấy chục năm tạo dựng, giờ chỉ còn ngôi nhà này để ở và một phương tiện hiện đang nằm bờ vì không còn kinh phí cho chuyến ra khơi”.

Hiện đang là mùa ghe ra biển khai thác, nhưng tại cửa biển Sông Ðốc (thị trấn Sông Ðốc, huyện Trần Văn Thời) còn gần 50% phương tiện khai thác neo tại bến vì không có kinh phí cho tàu ra khơi.

Thời còn ăn nên làm ra, ông Hiền đóng nhiều phương tiện để ra biển khai thác, trong đó ông có đầu tư cặp ghe cào trên 15 tỷ đồng. Nhưng chỉ khai thác được vài năm, nguồn lợi thuỷ sản trên biển dần cạn kiệt, ông Hiền lần lượt bán đi để bù lỗ.

Ông Hiền bộc bạch: “Tôi chỉ còn phương tiện đánh bắt nhưng nằm ụ 4 con nước rồi. Nếu nói đánh bắt không có thì cũng không phải. Ðể giảm chi phí ra vào nên ghe tôi mỗi chuyến ra khơi là một năm nằm bến. Năm 2023, phương tiện nhà tôi khai thác được 6 tỷ 700 triệu đồng nhưng khi trừ hết sở phí, tôi lỗ 400 triệu đồng”.

Ông Nguyễn Văn Thức, Chủ tịch Hội Thuỷ sản thị trấn Sông Ðốc, chia sẻ: “Giờ tìm ngư phủ khó lắm, nếu muốn họ đi thì chủ tàu phải chi tiền ứng trước. Chưa kể đến chuyện giữa chừng họ trốn hoặc không làm được việc. Phải chi tiền đưa họ vào bờ và tìm ngư phủ khác”.

Qua ghi nhận, còn rất nhiều phương tiện neo bờ không còn chi phí vươn khơi khai thác.

Thị trấn Sông Ðốc có 1.115 phương tiện khai thác thuỷ hải sản; trong đó, có 679 phương tiện 15 m trở lên. Hiện tại, theo ghi nhận của địa phương, có gần 50% phương tiện nằm bờ vì không còn chi phí để vươn khơi.

Khánh Hội (U Minh) là 1 trong 4 cửa biển lớn của tỉnh, tập trung lượng lớn tàu khai thác thuỷ hải sản. Ông Nguyễn Văn Ðỡ, Ấp 4, xã Khánh Hội, người có thâm niên mấy chục năm với nghề đánh bắt thuỷ sản, lắc đầu ngao ngán khi nói về những chuyến biển gần đây: “Tôi mới bán 2 phương tiện có công suất lớn vì đánh bắt giờ không được như xưa, con nước nào cũng lỗ, 6 phương tiện của tôi mỗi chuyến ra khơi cần hơn 100 triệu đồng/phương tiện. Liên tục mấy năm nay, con nước nào cũng bù lỗ. Cực chẳng đã tôi mới bán chứ các phương tiện này gắn bó với tôi lâu năm lắm rồi, nhưng nếu không bán thì cũng cho nằm bờ chứ không còn đủ sức vươn khơi nữa”.

Ông Châu Minh Ðảm, Chủ tịch UBND xã Khánh Hội, chia sẻ: “So với khoảng 5 năm trở về trước, sản lượng thuỷ sản khai thác giảm nhiều. Có người giữ lại phương tiện để mong gỡ gạc, nhưng nhiều ngư dân phải bán phương tiện, bỏ nghề biển vì phải đối mặt với quá nhiều rủi ro".

Ông Lê Hoài Phương, Phó trưởng phòng Phụ trách, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Ngọc Hiển, cho biết: “Ngư dân vươn khơi lợi nhuận ít, thậm chí là lỗ vốn. Nguồn lợi thuỷ sản suy giảm mạnh, trong khi chi phí đi biển ngày càng tăng. Nhiều ngư dân đã bỏ nghề, tàu ghe nằm bến”.

Thị trấn Gạch Rốc, huyện Ngọc Hiển sầm uất ngày nào giờ đìu hiu sau mỗi chuyến biển.

74 tuổi đời, ông Nguyễn Văn Ðấu, ngư dân cố cựu của vùng Tân Ân - Rạch Gốc nghiệm ra rằng: “Làm nghề biển bây giờ khó ăn lắm, cửa biển Rạch Gốc lớn như vậy, một thời sầm uất như thế mà bây giờ hiu hắt lắm”. Ánh mắt xa xôi, ông Ðấu tặc lưỡi than thở: “Ðúng là miệng ăn thì biển cũng cạn mà”.

Toàn tỉnh Cà Mau hiện có 4.052 tàu hoạt động khai thác hải sản, trong đó 1.503 tàu có chiều dài trên 15 m và có 1.500 tàu của các tỉnh lân cận đến hoạt động trên vùng biển của tỉnh. Phương tiện khai thác ngày một nhiều, sản lượng thuỷ sản ngày một cạn kiệt, giá cả các mặt hàng thiết yếu, như xăng, dầu... tăng, dẫn đến ngư dân khai thác không có lời, trái lại còn bị lỗ sau mỗi chuyến biển.

 

Kim Cương - Hải Nguyên

Bài 2: Cá đồng kêu cứu

 

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.