Ðất Cà Mau đã sản sinh ra những làng nghề gắn liền với các mặt hàng thủ công mỹ nghệ vang danh khắp chốn như: chiếu Tân Thành, Tân Duyệt; đan đát Thới Bình, rượu Tân Lộc, tôm khô Rạch Gốc… Thật may mắn vì một số sản phẩm này đã xây dựng được thương hiệu, trở thành hàng hoá mang lại giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, một số làng nghề đã dần mai một, cảm giác bùi ngùi tiếc nhớ là không thể tránh khỏi.
Ðất Cà Mau đã sản sinh ra những làng nghề gắn liền với các mặt hàng thủ công mỹ nghệ vang danh khắp chốn như: chiếu Tân Thành, Tân Duyệt; đan đát Thới Bình, rượu Tân Lộc, tôm khô Rạch Gốc… Thật may mắn vì một số sản phẩm này đã xây dựng được thương hiệu, trở thành hàng hoá mang lại giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, một số làng nghề đã dần mai một, cảm giác bùi ngùi tiếc nhớ là không thể tránh khỏi.
Nghề đan đát của Thới Bình một thời là niềm tự hào, là nguồn sống của biết bao người dân. Giờ đây, khi trở lại ấp Lê Hoàng Thá, xã Tân Bằng, nơi được coi là cái nôi của nghề đan đát, những dấu tích còn lại hết sức mờ nhạt.
Chủ tịch UBND xã Tân Bằng Lê Hoàng Phương cho biết: “Hợp tác xã đan đát Trúc Xanh của địa phương vừa giải thể. Nghề đan đát giờ còn ít người làm, chỉ làm theo kiểu cầm chừng, nhiều người tiếc nuối, nhưng đó là xu thế phát triển tất yếu…”.
Qua rồi thời hoàng kim
Lần đầu tiên về ấp Lê Hoàng Thá cách đây hơn 4 năm, chúng tôi vẫn cảm nhận được nhịp sống của người dân còn gần thật gần với cây trúc, tấm mê bồ, cái rổ. Lúc ấy, ông Bảy Vĩnh (Nguyễn Văn Vĩnh), Chủ nhiệm Hợp tác xã Trúc Xanh, còn khẳng định: “Ai bỏ nghề thì bỏ, còn gia đình tôi sẽ quyết tâm theo đến cùng”.
Bà Nguyễn Thị Thu cho biết: “Tiếc nghề nên quyết tâm giữ vườn trúc, nhờ vậy mà thu nhập từ đan đát khá ổn định”. Ảnh: PHẠM NGUYÊN |
Nghề đan đát Thới Bình khởi phát từ thời ông bà nội của ông Bảy Vĩnh, ông cũng là người dành trọn đời cho cây trúc, cho những sản phẩm đan đát, cho “nồi cơm” của mấy trăm gia đình xã Tân Bằng. Bây giờ, khi ông Bảy Vĩnh qua đời, thím Bảy Vĩnh (bà Lê Thị Tuyết) ngao ngán: “Ổng mất rồi, tôi buồn quá bỏ nghề luôn. Con cái cũng không ai theo, hợp tác xã cũng giải thể rồi…”.
Ông Phương thông tin: “Nghề đan đát một thời đã mang lại nguồn sống chủ yếu cho người dân. Hầu hết diện tích đất vườn, bờ thửa trước đây bà con đều trồng trúc. Mặt hàng đan đát Tân Bằng không chỉ bán trong và ngoài tỉnh mà còn sang tận Campuchia. Hợp tác xã đan đát hình thành mở ra hy vọng đổi đời của người làm nghề, nhưng rồi mọi thứ lại thay đổi quá nhanh”.
Từ năm 2000, khi chuyển dịch sang nuôi tôm, cây trúc dần bị phá, người dân nghiêng hẳn về phía con tôm và nghề đan đát dần tàn lụi. Thím Bảy Vĩnh bộc bạch: “Cũng phải thôi, con tôm có giá trị kinh tế cao hơn, làm vuông cũng đỡ cực nhọc, người ta dần bỏ nghề hết”.
Hợp tác xã Trúc Xanh sau một thời gian “cầm cự” cũng đến lúc phải kết thúc vai trò của mình. Thím Bảy Vĩnh tiếc nuối: “Nè, mấy chú coi, giấy quyết định thành lập đây, con dấu đây, giờ đâu còn gì nữa”. Thím Bảy Vĩnh nhớ về một thời: “Quanh năm suốt tháng bà con rộn ràng bên vườn trúc, tấm mê bồ, từ con nít đến người lớn, bất kể gái trai, bàn tay đều thoăn thoắt để làm thành những mặt hàng vừa chất lượng, vừa đẹp mắt”. “Nhớ nhất là những lúc cuối năm, nhà nhà, người người đốt đèn đêm để làm cho xong đợt hàng cuối để ăn Tết”, thím Bảy Vĩnh bồi hồi.
Anh Nguyễn Hoàng Mỹ, một trong những chủ vựa mê bồ lớn nhất vùng Tân Bằng, bộc bạch: “Hồi đó dân ở đây sống bằng nghề đan đát mà. Lúc cao điểm, mỗi tháng tôi xuất hàng qua Campuchia 3, 4 lần. Mỗi chuyến như vậy đầy ắp 2 ghe 40 tấn”.
Người Tân Bằng từ tấm mê bồ mà cuộc sống ổn định, nhiều gia đình vươn lên khá giả. Nhưng anh Mỹ cũng thừa nhận: “Giờ khó mà trở lại được như xưa, vườn trúc phá hết, lớp trẻ thì không muốn theo nghề. Tôi còn gắn bó đến giờ là vì còn hơn chục hộ sống chết với nghề và biết ơn những sản phẩm đan đát đã cho tôi cuộc sống ổn định như hôm nay”.
Vẫn còn cơ hội
Ấp Lê Hoàng Thá gần 250 hộ, giờ chỉ còn khoảng 15 hộ giữ nghề đan đát. Ông Ðoàn Minh Hiện, Trưởng ấp, cho biết: “Khi nước mặn vào, vườn trúc bị phá, với lại cây trúc trồng cũng không còn chất lượng và năng suất như trước, bà con dần bỏ nghề hết”.
Lớp trẻ lớn lên thì thấy nghề cực nhọc, ít có tương lai nên cũng chẳng mặn mà. Căn nhà rộng thênh thang của thím Bảy Vĩnh cất ra để đan đát giờ bỏ trống không. 4 năm trước, chúng tôi chụp hình cô con gái út của thím Bảy Vĩnh hoàn thành tấm mê bồ (sử dụng trong bài viết), giờ em tâm sự: “Cha mất, tụi em cũng không còn làm nghề, nhìn cũng nhớ lắm chứ, nhưng biết làm sao được!”. Em ngồi mần rổ cá phi để làm mắm, phía bên kia sông là những bụi trúc còi cọc trân mình trên đất mặn.
Bà Nguyễn Thị Thu, một trong số ít người còn làm nghề, chia sẻ: “Nhớ nghề quá thì làm thôi con, với lại nhà dì quyết tâm giữ vườn trúc, giá mê bồ cũng tàm tạm nên thu nhập ổn định. Thấy người ta bỏ gần hết, mình cũng cảm thấy buồn lắm”.
Hoá ra chuyện nhà bà Thu giữ vườn trúc lại là một chuyện rất đúng đắn. Khi lựa chọn con tôm, người Tân Bằng mong muốn làm giàu nhanh chóng, nhưng sau đó liên tiếp là những mùa vụ bấp bênh, lo âu. Dân Tân Bằng lại hồi nhớ về những năm tháng sống bình yên, ổn định với cây trúc, tấm mê bồ. Bà Thu cho rằng: “Tại trúc bây giờ không còn, dân phải mua nguyên liệu nên lãi thấp, bà con không làm. Nếu như khôi phục được vườn trúc thì nghề này vẫn còn cơ hội để phát triển”.
Chị Nguyễn Như Thuỷ, chủ vựa mê bồ, cung cấp thông tin rất thú vị: “Một số nhà bây giờ bắt đầu trồng lại trúc, muốn trở lại với nghề. Có lẽ người ta đã tính toán kỹ và nhận ra rằng, giữ được nghề truyền thống vẫn có thể phát triển kinh tế”.
Từ nghề cũ, có lúc tưởng chừng đã mai một, giờ lại mở ra một lựa chọn tích cực cho người dân Tân Bằng. Cùng với vụ lúa - tôm, nghề đan đát hoàn toàn có thể làm trỗi dậy sức sống của một làng quê trù phú trên đường xây dựng cuộc sống mới.
Ông Lê Hoàng Phương thông tin thêm: “Ấp Lê Hoàng Thá giờ còn 10 hộ nghèo, đời sống tương đối ổn định. Bà con đã mạnh dạn nuôi tôm càng xanh, hiệu quả rất cao. Riêng nghề đan đát, hộ nào còn gắn bó thì phải tính đến nguồn nguyên liệu, như vậy mới bền vững. Bản thân tôi cũng từng gắn bó với nghề đan đát, nên lúc nào cũng mong giữ lại được nghề truyền thống của cha ông”.
Làng nghề không chỉ là chuyện mưu sinh, đó còn là nét đẹp văn hoá riêng có của vùng nông thôn mà Nhà văn Sơn Nam từng ví von là “văn minh miệt vườn”. Ðừng để những làng nghề lần lượt mai một vì biết đâu đó có thể là một lựa chọn đúng đắn để phát triển quê hương./.
Phóng sự của Phạm Nguyên