ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 4-7-25 09:16:20
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ký ức về cuộc chiến bảo vệ biên giới giúp nước bạn Campuchia

Báo Cà Mau Tham gia cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam và giúp nước bạn Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng, những người lính của Minh Hải ngày nào vẫn ấp ủ trong lòng mong mỏi vun đắp cho tình cảm hữu nghị giữa 2 nước trong thời bình.

Thắng lợi vẻ vang 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Việt Nam giành lại nền độc lập, tự do, thống nhất đất nước năm 1975. Ðến khi hoà bình lập lại chưa bao lâu, những cán bộ, chiến sĩ của ta tiếp tục lên đường giúp nước bạn Campuchia giúp chống chế độ diệt chủng của Pol Pot hung tàn, đồng thời bảo vệ biên giới Tây Nam của lãnh thổ thân yêu. Trong đội hình quân tình nguyện Việt Nam sang giúp Campuchia ngày ấy, có rất nhiều những người con của quê hương Minh Hải (nay là Cà Mau và Bạc Liêu). Họ đã gác lại nhiều ước mơ, hoài bão, hy sinh tuổi xuân và một phần máu thịt để đánh đổ chế độ diệt chủng trên đất nước Campuchia; bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Vượt thiếu thốn, đùm bọc, chở che cho dân mình, dân bạn

Gặp lại những người lính năm nào và nghe từng dòng hồi ức của họ về cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam và giúp nước bạn Campuchia mới hiểu hết cái tình của người Việt Nam dành cho bạn bè.

Ðại tá Võ Hà Ðô, từng là cán bộ trinh sát của Ðại đội Trinh sát tỉnh Minh Hải, vẫn nhớ như in từng giai đoạn quan trọng trong cuộc chiến: “Sau giải phóng năm 1975 chỉ 5 ngày, Pol Pot đã gây hấn, đánh Phú Quốc, đánh chiếm Thổ Chu và lùa 500 người dân sát hại tàn nhẫn. Từ năm 1975-1976, Pol Pot gây hấn liên tục dọc tuyến biên giới của nước ta như: Tây Ninh, Ðồng Tháp, An Giang... Sang năm 1977, chúng tăng cường lực lượng với hàng chục sư đoàn tấn công sang. Ðặc biệt là sự kiện Pol Pot đánh sang An Giang và giết hơn 3000 người dân tại Ba Chúc. Người dân phải bỏ hết ruộng vườn, nhà cửa để chạy nạn. Thời điểm năm 1977 là ác liệt nhất dọc tuyến biên giới. Ðồng bào chết nhiều, bộ đội biên phòng chiến đấu cũng hy sinh vô số. Ðến năm 1978, Ðảng và Nhà nước ta không muốn gây chiến tranh nhưng trước tình hình quá cam go, căng thẳng nên buộc phải dùng biện pháp quân sự, đứng lên bảo vệ biên giới lãnh thổ. Lúc này, lực lượng vũ trang các tỉnh, quân khu đã tiến lên bảo vệ biên giới và người dân, chứ chưa tấn công sang Campuchia. Bộ đội Minh Hải bắt đầu tham gia chiến tranh biên giới Tây Nam hồi tháng 5/1978 với 4 đại đội, cao điểm nhất là vào cuối tháng 11/1978 với 11 tiểu đoàn. Ðợt đánh ác liệt nhất là tháng 12/1978”.

Đại tá Võ Hà Đô, từng là cán bộ trinh sát của đại đội trinh sát của tỉnh Minh Hải ghi lại những sự kiện quan trọng mà ông vẫn nhớ như in trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và giúp nước bạn Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng.

Ông Ngô Quang Nhơn (Tư Ðạo), nguyên Phó chủ nhiệm Chính trị Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, người trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường Tây Nam, không giấu sự tự hào: "Sau năm 1975, chúng tôi tiếp tục nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, hành quân lên chiến đấu ở biên giới. Chiến trường ở Trà Phô rất ác liệt, bộ đội mình hy sinh gần 1 trung đội, Pol Pot đánh bứt hết một đoạn chiến hào, quân chi viện của chúng ta mới phản công đánh chúng bật trở ra, bỏ chạy. Dù vậy, tối đến, chúng lại tiếp tục đánh. Chúng tôi cầm cự đến sáng mới tổng phản kích diệt 1 đại đội địch. Từ đó, bọn chúng mới bỏ ý định chiếm Trà Phô làm bàn đạp đánh chiếm Hà Tiên và tháo chạy về biên giới. Sang năm 1979, Trung ương và Bộ Quốc phòng có chủ trương tổng tấn công toàn lực sang biên giới tiêu diệt chế độ Pol Pot và giải phóng Nhân dân Campuchia. Lúc này, nhiệm vụ chiến lược được nâng lên là tiêu diệt chế độ diệt chủng để cứu giúp người dân nước bạn".

Ông Ngô Quang Nhơn (Tư Đạo), Phó chủ nhiệm chính trị của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Cà Mau cũng là người trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường Tây Nam không giấu xúc động khi nhớ về một giai đoạn chiến đấu can trường của mình và đồng đội.

Ðại tá Võ Hà Ðô xúc động hồi nhớ: "Mình không muốn có chiến tranh, kẻ thù buộc chúng tôi một lần nữa cầm súng sau giải phóng chưa được bao lâu. Người lính chúng tôi còn chưa kịp nghĩ đến hạnh phúc gia đình đã phải gác lại mọi chuyện riêng tư để lên chiến trường biên giới tham gia chiến đấu. Lên biên giới Tây Nam, tôi chứng kiến cảnh Pol Pot tàn sát Nhân dân mình một cách hết sức man rợ, chúng tôi rất căm thù. Tháng 1/1979, quân tình nguyện Việt Nam qua Campuchia chiến đấu giúp nước bạn thoát hoạ diệt chủng. Bộ đội mình vào và giải phóng, lũ lượt người dân Campuchia trở về. Chúng tôi nhìn những người dân Campuchia đói khát, còn da bọc xương trong những bộ đồ đen, đồ nâu thảm thương vô cùng. Chúng tôi cảm thấy xót xa, cảm thương cho họ đã sống trong chế độ Pol Pot 3 năm 4 tháng 21 ngày, bị tàn sát gần hết. Bộ đội mình ngày đó thực phẩm cũng không bao nhiêu, cũng chịu đói khát nhưng vẫn sẵn sàng chia sẻ phần ăn, thuốc men của mình cho người dân Campuchia. Tôi nhớ hoài cái cảnh người dân Campuchia được tìm thấy trong rừng vì họ lẩn trốn Pol Pot. Sau khi giải phóng, chúng tôi tìm thấy những người còn sót lại. Họ đói khát không đi nổi nữa. Chúng tôi phải dìu ra ngoài, nấu cháo loãng cho ăn để cứu sống họ. Mấy ngày sau, người dân Campuchia khoẻ lại, chúng tôi mới chỉ đường cho quay về. Ði đến đâu, bộ đội Việt Nam đều cứu giúp Nhân dân Campuchia đến đó. Chúng tôi làm nghĩa vụ quốc tế bằng sự vô tư, trong sáng. Mình giải phóng đất nước của bạn cũng đồng nghĩa bảo vệ đất nước của mình từ xa. Tấm lòng của người lính tình nguyện Việt Nam sang Campuchia làm nhiệm vụ chỉ có người dân Campuchia khi đó là thấu hiểu sâu sắc nhất".

Mong góp sức vun đắp tình hữu nghị

Sau 45 năm kể từ ngày chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng (7/1/1979-7/1/2024), những người lính quân tình nguyện ngày ấy và là cựu chiến binh hôm nay luôn phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ và truyền thống “Trung thành, đoàn kết, gương mẫu, đổi mới” của cựu chiến binh Việt Nam, tô thắm thêm tình đoàn kết hữu nghị của 2 dân tộc Việt Nam - Campuchia.

Cả hai đều mong mỏi tiếp tục vun đắp cho tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia dù còn chút sức lực của tuổi già.

Hoà bình lập lại, những người lính Việt năm nào từng tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới và giúp người dân Campuchia chống chế độ diệt chủng Pol Pot bạo tàn tuổi cũng đã cao, thế nhưng, tình cảm của họ dành cho nước bạn chưa bao giờ vơi đi. Có người được quay về thăm lại nơi từng chiến đấu, thăm lại những người đồng đội Campuchia năm nào. Có người chưa có điều kiện nhưng vẫn ngày ngày cập nhật tình hình trên các bản tin của báo đài để dõi theo sự phát triển của đất nước Campuchia. Họ vẫn mong tình cảm của 2 nước bền chặt và lớn mạnh hơn theo thời gian và giống như cái tình mà chiến sĩ Việt Nam đã dành chọn cho quân dân Campuchia trong cuộc chiến đấu sát cánh năm nào. Như lời chia sẻ của Ðại tá Võ Hà Ðô: "Việc xây dựng tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia đã thuộc về truyền thống của 2 nước và quân đội ta. Chúng ta đã nhiều lần sang giúp bạn ở Campuchia, trong kháng chiến chống Mỹ chúng ta đã có mặt ở Campuchia để hỗ trợ chiến đấu. Chúng ta đã đổ cả máu xương để giữ vững tình đoàn kết 2 nước. Tôi và anh Tư Ðạo đều là hội viên Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia. Trách nhiệm của chúng tôi là sẽ góp phần vun đắp cho tình đoàn kết hữu nghị giữa 2 nước bền chặt lâu đời và ngày càng tốt đẹp hơn. Trong thời bình hiện nay, 2 đất nước đã quan hệ tốt đẹp hơn, có những hành động thiết thực để gắn kết và mang lại lợi ích chung cho 2 nước".

Chung tâm tình, ông Ngô Quang Nhơn bày tỏ: “Giữ tình hữu nghị với Campuchia cũng chính là bảo vệ Tổ quốc. Là những người từng không tiếc tuổi xuân, máu xương mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân 2 nước Việt Nam - Campuchia, chúng tôi mong muốn mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa Nhân dân 2 nước ngày càng được vun đắp"./.

 

Lam Khánh

 

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.