(CMO) Những ngày cuối năm, tiết trời bắt đầu se lạnh và những cơn mưa bất chợt mang cho chúng ta một chút nhớ nhung về những kỷ niệm đã qua. Trên "con ngựa sắt”, tôi rong ruổi về vùng lúa - tôm của huyện Thới Bình để thực hiện đề tài báo xuân mà Ban Biên tập phân công.
Cánh đồng lúa sóng sánh rập rờn khi làn gió khẽ lướt qua mang theo hương thơm thoang thoảng của những bông lúa đang ngậm đòng đòng… Cúi xuống, nhẹ nhàng hái một bông lúa đang ngậm sữa cho vào miệng và từ từ cảm nhận vị ngọt, thơm của sữa lúa, hương vị vấn vương trong ký ức tuổi thơ tôi suốt hơn 25 năm qua.
Quê tôi ngày xưa là vùng đất trũng, nhiễm phèn nặng. Dù đất có chủ nhưng không ai sản xuất, trồng lúa thì thất mùa nên gần như bỏ hoang. Những bông lúa còn sót lại, nở đòng đòng lưa thưa theo từng ngọn gió trở thành món ăn lót dạ cho bọn chăn trâu chúng tôi. Thuở ấy, cũng trên cánh đồng này, tôi và anh Chín đã "tung hoành", "ngang dọc" và nổi tiếng cả vùng. Nhắc lại thành tích này đúng là không có gì để tự hào, bởi đó không phải là tiếng thơm, nhưng dẫu sao cũng là kỷ niệm một thời tuổi thơ của chúng tôi.
Anh Chín tên thật là Nguyễn Việt Khái, kêu là anh bởi có quan hệ bà con. Anh nhỏ hơn tôi 1 tuổi và mọi người hay gọi anh với cái tên gắn liền với nghề là Khái trâu. Tuy thằng mới 12 tuổi, thằng thì 11, thân hình gầy còm, đen nhẻm bởi những ngày đội nắng, dầm mưa chăn trâu ngoài ruộng, nhưng độ chơi liều và phá phách của anh em tôi thì khỏi phải bàn. Câu chuyện mà đến nay đã qua hơn 25 năm tôi còn nhớ như in, đó là việc chặn đường không cho những đứa bạn cùng trang lứa đi chợ tết.
Thuở ấy, những đứa trẻ chăn trâu như chúng tôi mùi của trâu lúc nào cũng vương lên quần áo học trò nên làm gì có tết. Ngoài buổi học, tôi, anh Chín và những đứa bạn trong xóm phải ra đồng chăn trâu đến tối mịt mới về nhà, ngày thường cũng như những ngày lễ, tết. Nên nhìn những đứa con trai nhà giàu diện quần áo bảnh bao đi chơi tết, tôi và anh Chín tức lắm, bọn tôi bày trò để không cho ai qua địa bàn của mình.
Khi ấy “đại bản doanh” vùng chăn trâu của bọn tôi có một con đường đất đen mà mọi người gọi là lộ xe, dù không có chiếc xe nào đi được (nay chính là tuyến lộ Xuyên Á). Đây là một trong những trục đường chính ra trung tâm huyện và những điểm vui chơi tết. Biết được điều này, trong mấy ngày tết bọn tôi lập “trạm kiểm soát” bằng cây tràm, bẹ dừa, không cho ai đi ngang. Thế là, để qua trạm của bọn tôi chỉ còn cách lội xuống ruộng nước. Khi ấy, mỗi lần thấy tụi nó lấm lem bùn là chúng tôi vô cùng hả hê. Giờ nghĩ lại tự cười thầm, đúng là trò nghịch ngợm trẻ con.
Sau khi thoả thích với những trò nghịch ngợm trên bờ, cả bọn chúng tôi nhảy ùm xuống sông chơi trò rượt đuổi. Ảnh minh hoạ: Thanh Chi |
Cứ mãi nhớ về kỷ niệm tuổi thơ, tuyến đường từ trung tâm xã Trí Lực ra lộ Xuyên Á như gần hơn, chẳng mấy chốc đã đến. Tuyến lộ Xuyên Á hiện nay gần như trùng với tuyến lộ xe xưa kia mà chúng tôi thường dùng để chăn dắt trâu. Di chuyển trên tuyến đường phẳng phiu, xe cộ tấp nập này tôi lại thốt lên hai tiếng: “Không ngờ”. Đúng là không thể ngờ tuyến đường đầy lau sậy, chi chít vũng trâu năm nào giờ đã trở thành quốc lộ xuyên quốc gia. Càng không thể ngờ hơn khu vực ngày nào chỉ toàn năn là năn, xa xa mới có một mái nhà lá giờ đã trở thành những xóm làng san sát với những căn nhà tường khang trang, lộ làng thẳng tắp đến từng ngõ.
Di chuyển được một đoạn trên tuyến đường Xuyên Á tôi đến cầu Cái Sắn. Dẫu biết hiện nay mọi thứ đã hoàn toàn thay đổi nhưng tôi vẫn dừng xe, lội xuống thăm lại khu vực mà trước đây là điểm tụ tập vui chơi của cả bọn. Đó là một mô đất cao ngay ngã tư giữa kênh Cái Sắn và kênh Lộ Xe. Mô đất này ngày xưa bọn tôi làm thành con dốc, sau đó trét sình thành đường trượt dài tận mé nước. Xong rồi khoát nước lên cho ướt bóng, từ trên mô đất cao chúng tôi trượt dài, v..è..o... một phát nhào xuống mặt sông, nước bắn lên trắng xoá. Chúng tôi vừa reo hò, vừa rượt đuổi nhau dưới nước đến khi mắt đỏ chạch, miệng đóng rong, các ngón tay móp lại vì lạnh.
Cũng chính trên mô đất này chúng tôi làm tiệc ăn tết. Hồi đó tuy thiếu thốn tiền bạc nhưng có một thứ không bao giờ thiếu, đó là cá đồng. Tháng Chạp cũng là mùa cá cạn, cá nhiều vô số kể, đủ các loại, nào là cá lóc, cá trê, cá rô..., chỉ cần tìm thấy dấu chân trâu gần các mé kênh là 4-5 người ăn không hết. Món khoái khẩu nhất của chúng tôi là cá nướng rơm. Đứa chặt tre tươi để xiên dọc theo thân cá rồi cắm đầu cá xuống đất, đứa đi kiếm rơm phủ lên, đứa tìm quẹt châm lửa đốt.
Bàn tiệc giữa trời, bọn tôi ngồi bệt xuống đất, trên tàu lá chuối xanh con cá lóc đen thui như cục than, lấy rơm cạo bớt lớp khét, mạnh tay tách dọc theo sống lưng. Tách lớp da cháy đen ra để lộ thịt cá trắng tinh, khói bốc lên nghi ngút, mang theo hương thơm của cá lẫn mùi rơm thơm nồng. Bọn tôi giành nhau từng miếng cá còn nóng hổi, tiếng cười giòn tan cả góc trời quê.
Ngoài các món chính là kính thưa các loại cá nướng, còn có trái cây, nào là mít, xoài, ổi, mận… Hễ cái gì trong vườn của người dân nơi đây có là trong bữa tiệc bọn tôi có, tất nhiên toàn là những thứ được bọn tôi “chỉa” về. Thậm chí còn lựa những trái cây ngon và phải chín cây mới ăn, còn ăn thì nửa ăn nửa bỏ, y như Tôn Ngộ Không lúc đại náo thiên đình.
Tôi lại tiếp tục trên con ngựa sắt để hoàn thành nội dung trong đề tài báo xuân. Người chủ vườn mía năm xưa, vừa gặp anh đã nhận ra tôi: “Lúc này khoẻ hả chú, ở lại lai rai vài ly nhe. Để anh kêu mấy đứa nhỏ chạy đi kiếm ít mía về làm mồi nhậu, vườn mía nhà đã chuyển sang nuôi tôm hết rồi”.
Có lẽ vườn mía nhà anh Biên là một trong những kỷ niệm mà đến bây giờ và mãi về sau tôi không quên được. Gia đình anh Biên được xem là một trong những hộ tiên phong trong việc bắt tay vào cải tạo vùng đất nhiễm phèn nặng này, bằng việc lên liếp thay thế cây lúa kém hiệu quả bằng cây mía. Tôi còn nhớ, rẫy mía nhà anh Biên lúc ấy được xem là lớn trong khu vực, với hơn 20 liếp (mỗi liếp khoảng 500-600 m2), mà toàn mía tốt. Thế nhưng, do lúc ấy ít người trồng nên chuột cắn phá nhiều và trong đó có sự góp phần đáng kể của bọn “chuột” chăn trâu chúng tôi. Câu chuyện kể ra có lẽ ít người tin nhưng mà có thật. Lúc ấy, bọn trẻ chăn trâu mỗi đứa một ngày có thể ăn hết cả bó mía khoảng 30 kg. Gần như ngày nào cũng vậy nên "nghiện". Cứ thế, ngày này qua tháng nọ, đến khi thu hoạch, liếp mía ngoài cùng của rẫy thì gần như không còn gì. Thậm chí khi gia đình anh thu hoạch, bọn tôi sợ không còn mía ăn, lén ôm mấy bó mía giấu vào đám sậy ngoài lộ xe để ăn dần.
“Đúng là hồi đó mấy chú phá thiệt, nhưng thời đó mía có giá gì đâu. Chăm sóc thì cực, thu hoạch nặng nề mà bán chẳng được bao nhiêu. Có năm phải bù lỗ tiền mướn nhân công, nên khi được chuyển dịch sang nuôi tôm gia đình mạnh dạn ban liếp mía liền, kết hợp trồng lúa nên giờ kinh tế gia đình khấm khá”.
Từ giã gia đình anh Biên, tôi quyết định thay đổi lịch trình. Thay vì về TP Cà Mau bằng đường Xuyên Á, tôi ngược lại xã Trí Lực để về Tapasa của xã Tân Phú, rồi vòng qua Đồng Sậy của xã Thới Bình. Đó là những nơi gắn liền với tuổi thơ tôi để được ôn lại chút kỷ niệm xưa. Các nơi giờ thay đổi nhiều, đường quê được bê tông hoá từ xã nối liền các ấp, trên bờ thì hoa màu xanh tươi, dưới ruộng những cánh đồng lúa trên đất tôm đang ngậm sữa toả hương, hứa hẹn vụ mùa này bội thu… Tất cả như một lời khẳng định, vùng đất len trâu ngày nào giờ đã thay da đổi thịt và chắc sẽ tiếp tục đổi thay nhanh hơn trong thời gian tới./.
Song Nguyễn