ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 19-6-25 11:22:36
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Lướt sóng trên sông

Báo Cà Mau (CMO) Vỏ lãi, một loại thuyền có hình dáng lạ mắt, tốc độ di chuyển nhanh, chỉ thấy phổ biến trên vùng sông nước Tây Nam Bộ, đặc biệt có nhiều ở các tỉnh Nam sông Hậu. Không chỉ du khách nước ngoài mà rất nhiều bà con các tỉnh miền Bắc và miền Trung cũng rất thích thú khi lần đầu được ngồi trên những chiếc vỏ lãi lướt trên sông nước và cả trên mặt bãi phù sa.

Chưa tìm được con số thống kê toàn vùng, nhưng chỉ riêng tỉnh Cà Mau, chiều dài các con sông tự nhiên đã hơn 8.000 km. Ở đây, sông rạch là yếu tố đầu tiên hình thành nên làng xóm. Mọi ngôi nhà đều hướng ra phía sông. Từ nửa đầu thế kỷ 20 về trước, sự di chuyển của con người trên vùng đất này, chủ yếu dựa vào đường thuỷ.

Vỏ lãi lướt sóng trên sông.                       Ảnh: LÊ VŨ HOÀNG

Sinh sống ở đây, gia đình nào cũng phải có ít nhất một phương tiện đi lại trên sông nước. Chiếc xuồng, chiếc ghe là cầu nối quan trọng nhất của từng nhà với xã hội bên ngoài. Thế giới xuồng ghe nơi này vì thế cũng hết sức đa dạng, có hàng chục loại khác nhau, từ chiếc xuồng ba lá nhỏ bé chỉ chở được một, hai người, tới chiếc ghe chài có sức chở đến năm, bảy chục tấn hàng hoá.

Từ đầu thập niên 50 của thế kỷ 20 trở về trước, khi chiếc máy thuỷ động cơ du nhập vào nước ta còn hạn chế, việc đi lại trên vùng sông nước này chủ yếu bằng sức chèo chống của con người. Để tăng nhanh tốc độ và giảm thiểu sức người, cư dân ở đây luôn biết tận dụng hiệu quả sức đẩy của gió và dòng chảy của thuỷ triều. 

Do đặc điểm sông nước nên nghề đóng ghe xuồng rất phổ biến trong vùng. Ở mọi địa điểm dân cư, nơi nào cũng có những trại xuồng, trại ghe. Nghề đóng xuồng ghe là nghề truyền đời của nhiều gia đình. Có những địa phương nổi danh trên toàn vùng vì nghề đóng ghe xuồng như làng ghe Phụng Hiệp của tỉnh Hậu Giang chẳng hạn.

Ông Tiêu Văn Sum lái vỏ trên sông Cái Lớn, Kiên Giang.

Ngày trước, toàn bộ ghe xuồng đều được chế tác từ gỗ. Sao và dênh dênh là 2 loại gỗ thường được dùng để đóng xuồng ghe, vì chúng có độ bền tốt trong môi trường nước. Tuy nhiên, những loại gỗ này không sẵn có mà phải du nhập từ miền Đông Nam Bộ hay từ Campuchia xuôi bè theo dòng Mê Kông.

Chiếc vỏ lãi ra đời vào những năm 1960. Ban đầu nó có tên là chiếc tắc ráng, vì được chế ra tại kinh Tắc Ráng, gần chợ Rạch Giá ngày nay. Chính ông Tiêu Văn Sum là một trong những người đã tham gia chế tác ra loại phương tiện giao thông độc đáo này. Sự ra đời của chiếc vỏ lãi chịu tác động trực tiếp từ cuộc du nhập khá ồ ạt của các loại máy thuỷ động cơ vào miền Nam thời đó.

Khi máy thuỷ động cơ thay thế cho dầm chèo, việc đi lại trở nên nhanh chóng, người ta lại nhận thấy xuồng ghe kiểu cũ trở nên kềnh càng, cản nước, khiến các máy đuôi tôm khó phát huy hết tốc độ. Thế là chiếc vỏ lãi ra đời. So sánh kỹ ta thấy chiếc vỏ lãi ngày nay dài hơn và bề ngang có hẹp hơn, cỡ một mười, một bảy so với chiếc tắc ráng nguyên thuỷ. Tuy nhiên, để đẩy cho tốc độ của chiếc vỏ chạy nhanh đến gần 50 km/giờ như ngày nay, những người thợ như anh Lâm Thanh Sơn đã có rất nhiều sáng kiến cải tiến để “nâng cấp” cho chiếc máy đuôi tôm ngoại nhập.

Trong lúc gỗ rừng ngày một khan hiếm, sự du nhập của công nghệ chế tạo xuồng ghe bằng vật liệu composite vào nước ta vài chục năm gần đây đã góp phần rất đáng kể tạo bước đột phá trong phát triển phương tiện giao thông thuỷ. Nhẹ hơn và bền hơn gỗ, chất liệu composite cũng làm cho tốc độ của chiếc vỏ lãi trở nên nhanh hơn đáng kể.

Nhiều năm sau ngày đất nước thống nhất, do không mở cửa với thế giới bên ngoài, nguồn nhập khẩu máy thuỷ động cơ không còn, cộng với tình trạng khan hiếm xăng dầu nên giao thông đường thuỷ có thời kỳ quay trở lại với các phương tiện thô sơ. Chỉ sau khi có chính sách mở cửa, nguồn máy ngoại nhập với nhiều mẫu mã đa dạng, tiện dụng, giá cả phải chăng, được thoải mái nhập khẩu vào nước ta, bán tràn ngập trên thị trường cùng với sự xuất hiện của chiếc vỏ composite, đã làm cho phương thức đi lại trên sông nước bằng dầm, chèo gần như chấm dứt hẳn. Trên miền sông nước này, không chỉ nam giới mà cả phụ nữ và trẻ em cũng thành thục điều khiển xuồng ghe đi lại bằng máy đuôi tôm.

Giờ đây, những người làm nghề khai thác sò huyết hay cào nghêu, mò chem chép không còn phải trầm mình trong nước mặn hay dang lưng phơi nắng, đội mưa bì bõm trên bãi lầy tìm bắt từng con mà đã có sự hỗ trợ rất tiện ích của chiếc vỏ lãi; như cách cào nghêu, sò của bà con Đất Mũi, Gò Công, Rạch Chèo (Cà Mau).

Bây giờ thật khó xác định ai là tác giả của những sáng kiến cải tiến cho chiếc máy đuôi tôm ngoại nhập tăng thêm nhiều tính năng ưu trội, thích nghi trong các điều kiện di chuyển khác nhau do yêu cầu hoạt động của con người và thực tế sông nước. Bởi những người thợ sửa máy bình thường khắp vùng như anh Trương Cam Bốt ở xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi đều có tham gia ít nhiều.

Để động cơ máy đạt yêu cầu di chuyển tốt nhất cho hoạt động khác nhau của từng chiếc vỏ lãi, đã có rất nhiều cải tiến đáng ghi nhận như đôn dênh, truyền nhong tăng lực, kéo dài hay rút ngắn láp máy; đặc biệt là việc gò giũa, thay đổi hình thù của từng chiếc chong chóng quạt nước, còn gọi là chân vịt, để tạo ra lực đẩy như ý muốn.

Kết quả ngoạn mục từ kỹ thuật gọt giũa, gò uốn những chiếc chân vịt của máy đuôi tôm là hình ảnh lướt đi như bay của những chiếc vỏ lãi trên bề mặt những bãi bùn cạn nước. Hình ảnh này giờ đây không còn xa lạ với cư dân trên khắp các vùng bãi bồi rộng lớn ven biển của ĐBSCL. Bởi vì ở mỗi làng xóm, mỗi dòng kênh, mỗi con rạch đều có những con người sáng tạo như anh thợ Trương Cam Bốt. Họ làm việc không có công thức chung chỉ dẫn mà chỉ dựa trên sự mẫn cảm của bản năng phản ứng sinh tồn.

Vỏ lãi dùng để cào chem chép trên bãi biển Gò Công, xã Nguyễn Việt Khái, huyện Phú Tân.

Nói đến các khía cạnh trong việc sáng tạo ra chiếc vỏ lãi của dân miền Tây, cũng cần phải kể đến câu chuyện sau đây. Vào khoảng cuối những năm 1980, một nông dân là anh Hai Nha, ở ấp Rạch Nhum, xã Khánh An, huyện U Minh, đã có một sáng kiến táo bạo: đưa chiếc máy xe hơi xuống làm động cơ để chạy vỏ lãi. Sau khi chiếc máy xe hơi được đưa xuống sông làm động cơ thuỷ, tốc độ di chuyển trên sông nước của người miền Tây bất ngờ tăng vọt lên gấp hai, ba lần. Và, chiếc vỏ lãi từ chỗ chỉ được xem như một phương tiện giao thông cá nhân, người ta nhân lớn nó lên thêm vài lần và gắn những chiếc máy xe có công suất lớn, thành ra một thứ tàu đò để chuyên chở hành khách, hàng hoá.

Ngày nay, sự hiện diện của chiếc vỏ lãi trong đời sống sông nước miền Tây đã trở thành một nét văn hoá độc đáo mang tính chất đặc thù của vùng đất.

Cùng với các cuộc đua ghe Ngo mang đậm dấu ấn văn hoá cộng cư đa sắc tộc của miền sông nước, giờ đây những cuộc đua vỏ lãi cũng góp thêm ngày hội tưng bừng ở nhiều tỉnh, nhất là các tỉnh Nam sông Hậu. Quán quân trong các cuộc đua đã trở thành những ông “vua tốc độ” nổi danh như cặp bài trùng Lâm Hoàng Sơn và Võ Hậu Chính ở ấp Bá Huê, xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi. Hai anh nông dân chánh hiệu này đã rinh hàng chục giải thưởng cao nhất của các cuộc đua vỏ lãi cấp huyện, cấp tỉnh và cả khu vực đồng bằng trong gần chục năm qua.

Và, với du khách lần đầu đến đất miền Tây được chứng kiến cảnh một đám cưới với cả đoàn vỏ lãi đi đón dâu trên sông, hay hình ảnh những chiếc vỏ lãi len lỏi như con thoi trong các phiên chợ nổi cũng sẽ là những ấn tượng khó phai trong ký ức./.

Vũ Trọng Đắc

Phát thanh viên - Nghề của chúng tôi

Chỉ 5 ngày sau khi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Ðộc lập tại Vườn hoa Ba Ðình Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Ðài Tiếng nói Việt Nam đã phát đi bản tin đầu tiên vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 7/9/1945, khẳng định nền độc lập tự do của một dân tộc, một đất nước đã có chủ quyền, có tên trên bản đồ thế giới. Cũng thời điểm ấy đã khai sinh một nghề mới, đó là nghề “nói trên sóng”, mà chuyên môn gọi là xướng ngôn viên (ngày nay thống nhất gọi phát thanh viên).

CTV - Dấu ấn riêng

Ngày 18/8/2007, Ðài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Cà Mau (CTV) tổ chức họp mặt Kỷ niệm 30 năm phát sóng phát thanh (19/8/1977-19/8/2007) và 20 năm phát sóng truyền hình (19/8/1987-19/8/2007). Trong chương trình văn nghệ chào mừng, thí sinh Quan Thanh Thuỷ, giải Nhất tiếng hát Phát thanh - Truyền hình Cà Mau lần thứ 7-2007 hát bài “Về Ðất Mũi” (Nhạc sĩ Hoàng Hợp - thơ Lê Chí). Lời thơ đó của Lê Chí tới bây giờ vẫn còn nhắc nhở chúng ta: “Ơi! Ðất Mũi Cà Mau, trăm thương ngàn mến. Một hạt phù sa lấn biển thêm rừng. Ðều giục người đi nhanh nhanh đôi bàn chân, nhanh nhanh những nghĩ suy và ước vọng. Về đất biển Cà Mau, thấy đất trời thêm rộng lớn...”.

Làm báo Tết ngày ấy

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Trường Tuyên huấn Trung ương III phụ trách công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ tuyên huấn - báo chí - tuyên truyền từ Ðà Nẵng trở vào phía Nam. Năm 1978-1979, trường này mở lớp báo chí trung hạn. Tỉnh Minh Hải (Cà Mau - Bạc Liêu) có số học viên đông nhất, hơn 20 người. Cuối năm 1979, lớp bế giảng, chúng tôi về bổ sung cho Báo và Ðài Phát thanh Minh Hải (hồi đó tỉnh chưa có truyền hình).

Vẻ vang báo chí cách mạng địa đầu phương Nam - Bài cuối: Báo chí thời công nghệ số

Trong dòng chảy sôi động của Báo chí Cách mạng Việt Nam, báo chí Cà Mau đã và đang khẳng định vai trò là tiếng nói tin cậy của Ðảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh nhà. Nếu như báo chí cách mạng trong những giai đoạn lịch sử trước đây là “chiến”, thì thời đại ngày nay, sức mạnh thông tin của báo chí là tri thức. Nghĩa là báo chí phải chuyển sang cung cấp tri thức.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Vẻ vang báo chí cách mạng địa đầu phương Nam - Bài 2: Những nhà báo trung dũng

Báo chí cách mạng tỉnh Cà Mau - Bạc Liêu ghi nhận sự dũng cảm, mưu trí, kiên gan, sẵn sàng hy sinh tính mạng của bao thế hệ nhà báo trong mưa bom bão đạn để làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của “người lính đi đầu” trên mặt trận tư tưởng - văn hoá, cả trong thời chiến và thời bình. Nhiều người trong số họ đã anh dũng ngã xuống, hiến dâng đời mình cho độc lập, tự do của quê hương, đất nước.

Vẻ vang báo chí cách mạng địa đầu phương Nam

Trong suốt quá trình hình thành và phát triển 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam, Báo chí Cách mạng Cà Mau và Bạc Liêu không thể tách rời với lịch sử Ðảng bộ tỉnh của 2 địa phương - đó là khẳng định của Nhà báo Nguyễn Duy Hoàng, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam tỉnh Bạc Liêu. Nhìn về quá khứ, “cây đại thụ” của làng báo Cà Mau - Bạc Liêu, Nhà báo lão thành Phạm Văn Tri (Bảy Minh), nguyên Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam tỉnh Cà Mau, cho rằng, trên vùng đất ở thời kỳ làng nước còn hoang sơ, con người thưa thớt, song công việc làm báo nơi địa đầu phương Nam cũng đã được nhen nhóm, từng bước hình thành hoạt động báo chí chống kẻ thù cướp nước và bán nước.“Từ buổi bình minh cách mạng và trải qua các chặng đường đấu tranh, Báo chí Cách mạng Cà Mau - Bạc Liêu luôn hiện diện, sát cánh cùng Ðảng bộ và Nhân dân, trở thành lực lượng xung kích chiến đấu quên mình, vì mục tiêu, lý tưởng của Ðảng, của cách mạng”, Nhà báo lão thành Phạm Văn Tri khẳng định.

Số hoá để phát triển nông nghiệp bền vững - Bài cuối: Nhìn về tương lai đầy triển vọng

Những giải pháp và phương hướng từ ngành nông nghiệp liên tục được đề xuất, triển khai để thúc đẩy chuyển đổi số một cách nhanh chóng, mạnh mẽ, hướng tới mục tiêu phát triển nền nông nghiệp xanh, phát triển bền vững.

Số hoá để phát triển nông nghiệp bền vững - Bài 2: Bài toán cân não

Câu chuyện chuyển đổi số trong nông nghiệp Cà Mau không chỉ là hành trình số hoá những ao tôm, thửa ruộng, mà là quá trình “số hoá tư duy”, điều này không dễ dàng, khi thói quen canh tác thủ công, truyền thống đã ăn sâu vào máu thịt của người nông dân bao đời.

Số hoá để phát triển nông nghiệp bền vững

Theo “Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã chỉ đạo các tỉnh, thành phố tích cực phát huy thế mạnh, khắc phục hạn chế trong số hoá nông nghiệp và môi trường. Mục tiêu là xây dựng nền nông nghiệp thông minh, an toàn, hội nhập quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu và nâng cao giá trị gia tăng.