ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 6-7-25 05:11:11
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Má sáu

Báo Cà Mau (CMO) Má Sáu sống một thân một mình trong căn nhà bằng cây lá tạp dưới tán dừa và những cây tràm che phủ tại xóm kinh Ba Xuyên, ấp Rạch Bần, xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời. Thời kháng chiến chống Pháp, bà con xóm ấp và cán bộ kháng chiến gọi má Sáu bằng chị Sáu, dì Sáu. Thời kỳ bí mật đến suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, bà con làng xóm và cán bộ từ xã đến huyện, tỉnh, khu… đều gọi “má Sáu kinh Ba Xuyên”.

Những ngày chiến tranh ác liệt, vùng đất Rạch Bần, kinh Ba Xuyên thành điểm ngắm, thành mục tiêu bình định của quận Sông Đốc. Má Sáu không sợ hãi trước những cuộc càn quét. Trong mưa bom bão đạn, má Sáu vững vàng bám trụ trong căn nhà nhỏ đơn sơ của mình. Nhiều lần ngôi nhà bị bom pháo phá sập, má gom góp cây lá trong vườn và nhờ các con thanh niên trong xóm ấp dựng lại căn nhà trên nền cũ của má. Má trụ lại đây qua các thời kỳ bom đạn ác liệt nhất. Duy có điều, những ngày tháng này má Sáu rất buồn vì vắng bóng đàn con của má là cán bộ, là chiến sĩ, là diễn viên Đoàn Văn công và bà con làng xóm. Nỗi nhớ các con chực chờ trong lòng, nên khi biết cơ quan, đơn vị về đóng quân gần, má Sáu đội mưa, đội nắng bơi xuồng đến thăm.

Tôi và anh Nguyễn Xuân Bắc (Ban Biên tập Tạp chí Văn nghệ Lúa Vàng của tỉnh) cũng từ giã má Sáu vào những ngày này - ngày má Sáu cùng hai anh em chúng tôi lập bàn thờ và nấu mâm cơm cúng tang lễ Bác Hồ. Tôi, anh Nguyễn Xuân Bắc ôm má Sáu thật chặt, rưng nước mắt từ giã má bước xuống xuồng giữa cơn mưa vào lúc nửa đêm. Khi ấy vừa dứt mấy loạt pháo bầy từ Chi khu Rạch Ráng trút xuống xóm kinh Ba Xuyên, một số người chết và bị thương, một số ngôi nhà, một số khu vườn bị phá huỷ tan nát.

*

Ba má thành chồng vợ trong hoàn cảnh cả hai tha phương cầu thực bằng nghề làm thuê, ở đợ. Không cúi đầu trước nỗi khổ triền miên, ba má dành dụm mấy năm mua được chiếc xuồng cũ, bỏ kiếp ở đợ, làm thuê ở xứ Vĩnh Long, Cần Thơ, lênh đênh trên chiếc xuồng xuôi về xứ ở Cà Mau sống bằng nghề bán hàng bông. Mãi đến đầu năm 1951, dòng nước đưa đẩy ba má trôi về xứ sở Rạch Bần này. Ở đây, ba má được chính quyền địa phương xét cấp 30 công đất làm ruộng. Và cuối năm 1951, ba từ giã má gia nhập bộ đội vệ quốc đoàn…

Chiến đấu chưa tròn 3 năm, má nhận tin buồn: Ba hy sinh trong trận chống càn ở Trảng Bàng (Tây Ninh). Sau ngày đau buồn này bà con không thấy má Sáu khóc, chiều chiều má ôm đứa con độc nhất của mình ngồi tại ngạch cửa hằng giờ, hết nhìn vào bàn thờ khói hương nghi ngút, lại quay nhìn bầu trời xa xăm: mong ngóng, đợi chờ, hy vọng…

Lần lữa, nỗi đau thương, niềm mong đợi qua đi cùng năm tháng… Má Sáu vững vàng tiếp tục chăm sóc đứa con độc nhất, cặm cụi với mấy liếp dừa, liếp cau và mấy chục công ruộng, tham gia công tác kháng chiến ở xóm ấp. Đến chế độ độc tài phát xít Mỹ - Diệm thi hành chính sách tố cộng, diệt cộng, má Sáu âm thầm đào hầm ngoài vườn, trong nhà nuôi giấu cán bộ hoạt động bí mật. Ở đây, bọn đồn bót dựng lên hệ thống chính quyền, cài mật thám dày đặc nhưng việc nuôi giấu cán bộ hoạt động bí mật của má Sáu và thím Tư Hương an toàn qua thời kỳ cách mạng gặp khó khăn, ác liệt nhất.

Là Phó Bí thư Xã uỷ Phong Lạc, từng được má Sáu nuôi giấu, đùm bọc, chở che trong những năm tháng khó khăn, ác liệt ấy, ông Chín Ráng kể: Có một lần khi mặt trời lặn xuống cánh đồng lúa sau nhà, bóng tối tràn đến, ông bám vào nhà má Sáu. Vừa bước chân vào cửa sau thì tai ông nghe tiếng chân người chạy rần rật ngoài đường… Khi ấy má Sáu xuất hiện trước mặt ông, kéo ông xuống hầm bí mật trong buồng ngủ của má. Ông vừa xuống hầm thì một toán giặc tràn vào nhà từ cửa trước và cửa sau. Tên chỉ huy nạt toáng lên: “Nó đâu? Đ.M bà già giấu tên Việt cộng đâu? Bà không khai tôi bắn bà?". Bình tĩnh một cách lạnh lùng, má Sáu cất tiếng cười và tiếng nói rang rảng: “Mấy ông nói sao lạ lùng vậy. Nhà tôi trống huơ trống hoác vậy Việt cộng trốn ở đâu? Mấy ông tìm được Việt cộng ở đâu tôi chịu tử hình”. Cả đám lính chạy quanh nhà, vào nhà trên, vào chái bếp, vào buồng, lùng sục không thấy “tên Việt cộng” nào, cả đám bẽn lẽn rút êm.

Ngồi dưới hầm nghe tiếng chân giặc và tiếng má Sáu đối đáp với bọn chúng, khiến ông Chín Ráng thắt ruột, thắt tim. Khi căn nhà nhỏ bé của má Sáu không còn âm thanh hỗn tạp, ông Chín Ráng thở một hơi dài, nhẹ nhõm… Cùng lúc đó má Sáu xuất hiện. Má ra ám hiệu cho ông biết bọn giặc rút đi nhưng ông không được rời hầm, cảnh giác bọn giặc kích lại… Mãi đến lúc mặt trời lên đỉnh đầu, đích thân má Sáu dẫn ông đưa ra tận hầm bí mật ngoài vườn, giữa đám tre gai và cây cối rậm rạp. Và, má bảo, khi nào có lệnh má ông mới được rời khỏi đây.

Khi tên chủ ấp vào kêu má Sáu đưa Hồng (con trai một) ra xã đăng ký quân dịch, má biết chuyện chẳng lành nên nhắn ông Chín Ráng đến ngay và cho Hồng theo ông. Ông Chín Ráng đưa Hồng vào đơn vị giáo phái Ngô Văn Sở. Hồng trở thành chiến sĩ dũng cảm diệt ác, phá kềm, giải phóng nông thôn trong cuộc Đồng khởi 1960.

Sau Đồng khởi, Hồng được chuyển lên đơn vị chủ lực miền. Hồng chiến đấu anh dũng và hy sinh trên địa bàn Bắc sông Hậu. Má Sáu nghe tin nhưng chưa biết đích thực con mình hy sinh tại đâu và nằm ở nghĩa trang nào. Người con độc nhất hy sinh, má Sáu nén nỗi đau và niềm tiếc thương như khi nhận tin người chồng ngã xuống ngoài chiến trường. Má nói: “Sự mất mát, đau thương này đâu phải chỉ có gia đình tôi…”.

Và má Sáu tiếp tục sống trong tình thương yêu ấm áp, đậm đà của bà con làng xóm và với hàng trăm, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, đương đầu với biết bao thử thách, gian khổ, má Sáu trở thành chỗ dựa về tinh thần, là nguồn động viên, sức sống và sức chiến đấu cho hàng ngàn đứa con là cán bộ, chiến sĩ.
                                                                                             *
Giữa năm 1969, xóm kinh Ba Xuyên còn nằm trong mục tiêu bình định. Song, trước sức chiến đấu oanh liệt của địa phương và sự tác động do thắng lớn trên chiến trường chung, âm mưu bình định của giặc có mức chùng lại… Thời gian này, bộ phận biên tập Tạp chí Văn nghệ Lúa Vàng chúng tôi trở lại nhà má Sáu. Rồi tại đây, má Sáu cùng chúng tôi nhận tin “trời long đất lở”: Bác Hồ qua đời!

Khi còn say ngủ, tiếng kêu thật lớn của anh Nguyễn Xuân Bắc khiến tôi thức dậy, tỉnh táo:

- Minh ơi Minh, Bác Hồ qua đời…

Anh Nguyễn Xuân Bắc vội vàng đến đầu giường của má Sáu cất tiếng khe khẽ:

- Má ơi má, Bác Hồ qua đời… má ơi!

Tôi cùng anh Bắc đứng tại đầu giường của má Sáu, nghe má Sáu cất tiếng kêu thống thiết: “Trời ơi! Cụ Hồ ơi!...”. Má Sáu không ngồi dậy mà tuột xuống nằm sấp trên nền nhà, hai tay má đập bồm bộp xuống mặt đất, miệng má kêu lên liên hồi: “Trời ơi! Cụ Hồ ơi!...”. Anh Bắc và tôi đỡ má nhưng hai tay má ghì chặt vào gốc cột, miệng má tiếp tục kêu “trời”, kêu “Cụ Hồ”… Tiếng gào thét của má Sáu làm cho không gian của căn nhà lá nhỏ bé tràn ngập niềm xót đau, thương tiếc, khiến tôi và anh Nguyễn Xuân Bắc sụt sùi trào tuôn nước mắt…

Trời vừa hừng sáng, má Sáu lục đục ở nhà bếp, dọn dẹp những đồ vật trên chếc ghế nhổ mạ… Má đem chiếc khăn rằn thường dùng ra ao giặt và đem vào lau mặt bàn, chân bàn sạch sẽ. Má vào buồng mang ra bức chân dung Bác Hồ và chiếc mền dệt hình con rồng, con phụng. Chiếc mền má trải lên mặt bàn, má đưa bức chân dung Bác cho anh Bắc và dặn tỉ mỉ: “Con đến tiệm thằng Thảo mua giấy nhật trình về tô thành tấm phông dán ảnh Bác vào…”. Má sai tôi ra sân cắt đem vào một mớ bông trang, bông mười giờ… Một tiếng đồng hồ sau, bàn thờ Bác Hồ được dựng lên chính giữa nhà má Sáu. Má Sáu đốt nhang đưa tôi 3 nén, đưa anh Bắc 3 nén, má giữ 3 nén… Anh em tôi làm theo má. Chắp 3 nén nhang lên trán, má khấn vái thì thầm, nước mắt đổ tuôn ra… Cắm nhang xong, anh em tôi ngồi bên má, nghe má kể về công đức Bác Hồ…

Tôi với anh Bắc chuẩn bị ra cơ quan nghe thông báo Bác Hồ từ trần và bàn kế hoạch làm lễ truy điệu Bác… Má Sáu dặn: “Hai con đi về sớm, chiều má nấu mâm cơm cúng Bác…”.

Khoảng 14 giờ, hai anh em tôi đội mưa về, thấy ngôi nhà đóng cửa, nhìn ra bờ ranh thấy má Sáu đi trong mưa… tay cầm cần câu, tay ôm bó bông súng, vai quảy cái giỏ tre đựng nhiều cá. Tôi dầm mưa chạy ra đón và xách phụ má vài món. Vào tới nhà, má nói: “Bữa nay mưa không ngớt hột nên cá ít ăn câu. Nhờ đổ mấy cái lợp nên được bộn cá. Má tính vầy, cá lóc má nấu canh chua bông súng, mấy con cá trê chiên ăn với mớ rau đồng, số cá rô kho mắm chấm bông súng. Hai con tiếp má bắt con gà trống nấu cháo. Mâm cơm cúng Bác má tính vậy các con thấy được không?...”. Ngưng mấy giây, má Sáu nói tiếp: “Bác từng mong vào Nam, nay Bác qua đời, mâm cơm cây nhà lá vườn ở xứ sở xa xôi này chắc thế nào Bác cũng về chứng kiến tấm lòng của má con mình hen các con”.

Đúng 17 giờ, thức ăn nghi ngút khói trên bàn thờ Bác. Má Sáu đốt đèn và đốt nhang phân chia cho anh em tôi. Má rót rượu vào ly rồi khấn vái Bác. Anh em tôi cùng má quỳ trước bàn thờ lạy Bác. Trong giây phút này, nước mắt má rơi lã chã… Hai anh em tôi nước mắt cũng chảy tràn qua tiếng nấc nghẹn ngào trong cổ họng!

Những ngày tháng 9 năm ấy, kẻ thù độc ác tung quân đánh phá, bình định dữ dội vào cơ hội cách mạng và Nhân dân đang lâm vào một tổn thất và đau buồn lớn nhất: Bác Hồ qua đời! Xóm kinh Ba Xuyên trở lại nằm trong vùng kiểm soát của đồn Rạch Bần, đồn Lung Trường và Chi khu Rạch Ráng. Vào giữa tháng 10/1969, tôi và anh Bắc từ giã má Sáu, má Sáu ở lại sống trong vòng kềm kẹp khắc nghiệt của kẻ thù. Mãi đến ngày giải phóng miền Nam, tôi mới về kinh Ba Xuyên thăm má Sáu.

                                                                                              *

Năm 1979, sức khoẻ của má Sáu suy giảm, nhiều chứng bệnh kinh niên… Các anh lãnh đạo Đoàn Văn công giải phóng tỉnh Cà Mau đưa má Sáu về Cà Mau phụng dưỡng và chữa bệnh. Má Sáu qua đời vào năm 1981, mai táng ở Nghĩa trang từ trần tỉnh Cà Mau.

Với tôi, từ những ngày sống bên má, những ngày tháng do chiến tranh chia xa má và từ ngày má Sáu ra đi vào thế giới vĩnh hằng đến nay đã trên 50 năm, ký ức tôi luôn sáng ngời hình bóng của má. Nhân cách, tấm lòng, niềm tin, đức độ cống hiến, hy sinh cao cả của má Sáu trở thành hình tượng cao cả, thiêng liêng không phai mờ trong ký ức tôi./

Phạm Văn Tri

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Ðài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến - Tiếng nói của khát vọng độc lập, tự do

Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954). Có lúc đóng ở Ðồng Tháp Mười (Long An); có giai đoạn ở Thới Bình, Ðầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau), hay Kiên Giang, Bạc Liêu; có thời điểm đài đổi tên thành Ðài Tiếng nói Nam Bộ. Tuy vậy, dù ở bất cứ nơi đâu, tên gọi khác nhau, nhưng các thế hệ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên của đài không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một đài phát thanh vang danh, lừng lẫy; tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng. Ðó là tiếng nói của Uỷ ban Nam Bộ Kháng chiến; cầu nối của Ðảng, Bác Hồ với đồng bào Nam Bộ; là ước mong, khát vọng của đồng bào nơi đây về một Việt Nam độc lập, tự do.

Những khó khăn, thách thức của người làm báo trong thời kháng chiến

Mùa khô năm 1964, lần thứ hai tôi theo mẹ từ Bến Tre vào Cà Mau thăm ba tôi đang làm ruộng và dạy học tư ở Kinh Hãng Giữa... Ba tôi bất hợp pháp kể từ năm bác ruột thứ tư của tôi - 1 trong 12 người Việt Minh làng Ba Mỹ bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở bót Nhà Việc Mỹ Chánh năm 1946... Lần này, ba tôi không cho tôi trở về quê nữa, vì về ngoải mai mốt lớn lên tụi giặc nó bắt lính... Thế là tôi phải ở lại trong này, thành công dân Cà Mau từ đó.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.