ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 25-8-25 14:18:11
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Má sáu

Báo Cà Mau (CMO) Má Sáu sống một thân một mình trong căn nhà bằng cây lá tạp dưới tán dừa và những cây tràm che phủ tại xóm kinh Ba Xuyên, ấp Rạch Bần, xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời. Thời kháng chiến chống Pháp, bà con xóm ấp và cán bộ kháng chiến gọi má Sáu bằng chị Sáu, dì Sáu. Thời kỳ bí mật đến suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, bà con làng xóm và cán bộ từ xã đến huyện, tỉnh, khu… đều gọi “má Sáu kinh Ba Xuyên”.

Những ngày chiến tranh ác liệt, vùng đất Rạch Bần, kinh Ba Xuyên thành điểm ngắm, thành mục tiêu bình định của quận Sông Đốc. Má Sáu không sợ hãi trước những cuộc càn quét. Trong mưa bom bão đạn, má Sáu vững vàng bám trụ trong căn nhà nhỏ đơn sơ của mình. Nhiều lần ngôi nhà bị bom pháo phá sập, má gom góp cây lá trong vườn và nhờ các con thanh niên trong xóm ấp dựng lại căn nhà trên nền cũ của má. Má trụ lại đây qua các thời kỳ bom đạn ác liệt nhất. Duy có điều, những ngày tháng này má Sáu rất buồn vì vắng bóng đàn con của má là cán bộ, là chiến sĩ, là diễn viên Đoàn Văn công và bà con làng xóm. Nỗi nhớ các con chực chờ trong lòng, nên khi biết cơ quan, đơn vị về đóng quân gần, má Sáu đội mưa, đội nắng bơi xuồng đến thăm.

Tôi và anh Nguyễn Xuân Bắc (Ban Biên tập Tạp chí Văn nghệ Lúa Vàng của tỉnh) cũng từ giã má Sáu vào những ngày này - ngày má Sáu cùng hai anh em chúng tôi lập bàn thờ và nấu mâm cơm cúng tang lễ Bác Hồ. Tôi, anh Nguyễn Xuân Bắc ôm má Sáu thật chặt, rưng nước mắt từ giã má bước xuống xuồng giữa cơn mưa vào lúc nửa đêm. Khi ấy vừa dứt mấy loạt pháo bầy từ Chi khu Rạch Ráng trút xuống xóm kinh Ba Xuyên, một số người chết và bị thương, một số ngôi nhà, một số khu vườn bị phá huỷ tan nát.

*

Ba má thành chồng vợ trong hoàn cảnh cả hai tha phương cầu thực bằng nghề làm thuê, ở đợ. Không cúi đầu trước nỗi khổ triền miên, ba má dành dụm mấy năm mua được chiếc xuồng cũ, bỏ kiếp ở đợ, làm thuê ở xứ Vĩnh Long, Cần Thơ, lênh đênh trên chiếc xuồng xuôi về xứ ở Cà Mau sống bằng nghề bán hàng bông. Mãi đến đầu năm 1951, dòng nước đưa đẩy ba má trôi về xứ sở Rạch Bần này. Ở đây, ba má được chính quyền địa phương xét cấp 30 công đất làm ruộng. Và cuối năm 1951, ba từ giã má gia nhập bộ đội vệ quốc đoàn…

Chiến đấu chưa tròn 3 năm, má nhận tin buồn: Ba hy sinh trong trận chống càn ở Trảng Bàng (Tây Ninh). Sau ngày đau buồn này bà con không thấy má Sáu khóc, chiều chiều má ôm đứa con độc nhất của mình ngồi tại ngạch cửa hằng giờ, hết nhìn vào bàn thờ khói hương nghi ngút, lại quay nhìn bầu trời xa xăm: mong ngóng, đợi chờ, hy vọng…

Lần lữa, nỗi đau thương, niềm mong đợi qua đi cùng năm tháng… Má Sáu vững vàng tiếp tục chăm sóc đứa con độc nhất, cặm cụi với mấy liếp dừa, liếp cau và mấy chục công ruộng, tham gia công tác kháng chiến ở xóm ấp. Đến chế độ độc tài phát xít Mỹ - Diệm thi hành chính sách tố cộng, diệt cộng, má Sáu âm thầm đào hầm ngoài vườn, trong nhà nuôi giấu cán bộ hoạt động bí mật. Ở đây, bọn đồn bót dựng lên hệ thống chính quyền, cài mật thám dày đặc nhưng việc nuôi giấu cán bộ hoạt động bí mật của má Sáu và thím Tư Hương an toàn qua thời kỳ cách mạng gặp khó khăn, ác liệt nhất.

Là Phó Bí thư Xã uỷ Phong Lạc, từng được má Sáu nuôi giấu, đùm bọc, chở che trong những năm tháng khó khăn, ác liệt ấy, ông Chín Ráng kể: Có một lần khi mặt trời lặn xuống cánh đồng lúa sau nhà, bóng tối tràn đến, ông bám vào nhà má Sáu. Vừa bước chân vào cửa sau thì tai ông nghe tiếng chân người chạy rần rật ngoài đường… Khi ấy má Sáu xuất hiện trước mặt ông, kéo ông xuống hầm bí mật trong buồng ngủ của má. Ông vừa xuống hầm thì một toán giặc tràn vào nhà từ cửa trước và cửa sau. Tên chỉ huy nạt toáng lên: “Nó đâu? Đ.M bà già giấu tên Việt cộng đâu? Bà không khai tôi bắn bà?". Bình tĩnh một cách lạnh lùng, má Sáu cất tiếng cười và tiếng nói rang rảng: “Mấy ông nói sao lạ lùng vậy. Nhà tôi trống huơ trống hoác vậy Việt cộng trốn ở đâu? Mấy ông tìm được Việt cộng ở đâu tôi chịu tử hình”. Cả đám lính chạy quanh nhà, vào nhà trên, vào chái bếp, vào buồng, lùng sục không thấy “tên Việt cộng” nào, cả đám bẽn lẽn rút êm.

Ngồi dưới hầm nghe tiếng chân giặc và tiếng má Sáu đối đáp với bọn chúng, khiến ông Chín Ráng thắt ruột, thắt tim. Khi căn nhà nhỏ bé của má Sáu không còn âm thanh hỗn tạp, ông Chín Ráng thở một hơi dài, nhẹ nhõm… Cùng lúc đó má Sáu xuất hiện. Má ra ám hiệu cho ông biết bọn giặc rút đi nhưng ông không được rời hầm, cảnh giác bọn giặc kích lại… Mãi đến lúc mặt trời lên đỉnh đầu, đích thân má Sáu dẫn ông đưa ra tận hầm bí mật ngoài vườn, giữa đám tre gai và cây cối rậm rạp. Và, má bảo, khi nào có lệnh má ông mới được rời khỏi đây.

Khi tên chủ ấp vào kêu má Sáu đưa Hồng (con trai một) ra xã đăng ký quân dịch, má biết chuyện chẳng lành nên nhắn ông Chín Ráng đến ngay và cho Hồng theo ông. Ông Chín Ráng đưa Hồng vào đơn vị giáo phái Ngô Văn Sở. Hồng trở thành chiến sĩ dũng cảm diệt ác, phá kềm, giải phóng nông thôn trong cuộc Đồng khởi 1960.

Sau Đồng khởi, Hồng được chuyển lên đơn vị chủ lực miền. Hồng chiến đấu anh dũng và hy sinh trên địa bàn Bắc sông Hậu. Má Sáu nghe tin nhưng chưa biết đích thực con mình hy sinh tại đâu và nằm ở nghĩa trang nào. Người con độc nhất hy sinh, má Sáu nén nỗi đau và niềm tiếc thương như khi nhận tin người chồng ngã xuống ngoài chiến trường. Má nói: “Sự mất mát, đau thương này đâu phải chỉ có gia đình tôi…”.

Và má Sáu tiếp tục sống trong tình thương yêu ấm áp, đậm đà của bà con làng xóm và với hàng trăm, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, đương đầu với biết bao thử thách, gian khổ, má Sáu trở thành chỗ dựa về tinh thần, là nguồn động viên, sức sống và sức chiến đấu cho hàng ngàn đứa con là cán bộ, chiến sĩ.
                                                                                             *
Giữa năm 1969, xóm kinh Ba Xuyên còn nằm trong mục tiêu bình định. Song, trước sức chiến đấu oanh liệt của địa phương và sự tác động do thắng lớn trên chiến trường chung, âm mưu bình định của giặc có mức chùng lại… Thời gian này, bộ phận biên tập Tạp chí Văn nghệ Lúa Vàng chúng tôi trở lại nhà má Sáu. Rồi tại đây, má Sáu cùng chúng tôi nhận tin “trời long đất lở”: Bác Hồ qua đời!

Khi còn say ngủ, tiếng kêu thật lớn của anh Nguyễn Xuân Bắc khiến tôi thức dậy, tỉnh táo:

- Minh ơi Minh, Bác Hồ qua đời…

Anh Nguyễn Xuân Bắc vội vàng đến đầu giường của má Sáu cất tiếng khe khẽ:

- Má ơi má, Bác Hồ qua đời… má ơi!

Tôi cùng anh Bắc đứng tại đầu giường của má Sáu, nghe má Sáu cất tiếng kêu thống thiết: “Trời ơi! Cụ Hồ ơi!...”. Má Sáu không ngồi dậy mà tuột xuống nằm sấp trên nền nhà, hai tay má đập bồm bộp xuống mặt đất, miệng má kêu lên liên hồi: “Trời ơi! Cụ Hồ ơi!...”. Anh Bắc và tôi đỡ má nhưng hai tay má ghì chặt vào gốc cột, miệng má tiếp tục kêu “trời”, kêu “Cụ Hồ”… Tiếng gào thét của má Sáu làm cho không gian của căn nhà lá nhỏ bé tràn ngập niềm xót đau, thương tiếc, khiến tôi và anh Nguyễn Xuân Bắc sụt sùi trào tuôn nước mắt…

Trời vừa hừng sáng, má Sáu lục đục ở nhà bếp, dọn dẹp những đồ vật trên chếc ghế nhổ mạ… Má đem chiếc khăn rằn thường dùng ra ao giặt và đem vào lau mặt bàn, chân bàn sạch sẽ. Má vào buồng mang ra bức chân dung Bác Hồ và chiếc mền dệt hình con rồng, con phụng. Chiếc mền má trải lên mặt bàn, má đưa bức chân dung Bác cho anh Bắc và dặn tỉ mỉ: “Con đến tiệm thằng Thảo mua giấy nhật trình về tô thành tấm phông dán ảnh Bác vào…”. Má sai tôi ra sân cắt đem vào một mớ bông trang, bông mười giờ… Một tiếng đồng hồ sau, bàn thờ Bác Hồ được dựng lên chính giữa nhà má Sáu. Má Sáu đốt nhang đưa tôi 3 nén, đưa anh Bắc 3 nén, má giữ 3 nén… Anh em tôi làm theo má. Chắp 3 nén nhang lên trán, má khấn vái thì thầm, nước mắt đổ tuôn ra… Cắm nhang xong, anh em tôi ngồi bên má, nghe má kể về công đức Bác Hồ…

Tôi với anh Bắc chuẩn bị ra cơ quan nghe thông báo Bác Hồ từ trần và bàn kế hoạch làm lễ truy điệu Bác… Má Sáu dặn: “Hai con đi về sớm, chiều má nấu mâm cơm cúng Bác…”.

Khoảng 14 giờ, hai anh em tôi đội mưa về, thấy ngôi nhà đóng cửa, nhìn ra bờ ranh thấy má Sáu đi trong mưa… tay cầm cần câu, tay ôm bó bông súng, vai quảy cái giỏ tre đựng nhiều cá. Tôi dầm mưa chạy ra đón và xách phụ má vài món. Vào tới nhà, má nói: “Bữa nay mưa không ngớt hột nên cá ít ăn câu. Nhờ đổ mấy cái lợp nên được bộn cá. Má tính vầy, cá lóc má nấu canh chua bông súng, mấy con cá trê chiên ăn với mớ rau đồng, số cá rô kho mắm chấm bông súng. Hai con tiếp má bắt con gà trống nấu cháo. Mâm cơm cúng Bác má tính vậy các con thấy được không?...”. Ngưng mấy giây, má Sáu nói tiếp: “Bác từng mong vào Nam, nay Bác qua đời, mâm cơm cây nhà lá vườn ở xứ sở xa xôi này chắc thế nào Bác cũng về chứng kiến tấm lòng của má con mình hen các con”.

Đúng 17 giờ, thức ăn nghi ngút khói trên bàn thờ Bác. Má Sáu đốt đèn và đốt nhang phân chia cho anh em tôi. Má rót rượu vào ly rồi khấn vái Bác. Anh em tôi cùng má quỳ trước bàn thờ lạy Bác. Trong giây phút này, nước mắt má rơi lã chã… Hai anh em tôi nước mắt cũng chảy tràn qua tiếng nấc nghẹn ngào trong cổ họng!

Những ngày tháng 9 năm ấy, kẻ thù độc ác tung quân đánh phá, bình định dữ dội vào cơ hội cách mạng và Nhân dân đang lâm vào một tổn thất và đau buồn lớn nhất: Bác Hồ qua đời! Xóm kinh Ba Xuyên trở lại nằm trong vùng kiểm soát của đồn Rạch Bần, đồn Lung Trường và Chi khu Rạch Ráng. Vào giữa tháng 10/1969, tôi và anh Bắc từ giã má Sáu, má Sáu ở lại sống trong vòng kềm kẹp khắc nghiệt của kẻ thù. Mãi đến ngày giải phóng miền Nam, tôi mới về kinh Ba Xuyên thăm má Sáu.

                                                                                              *

Năm 1979, sức khoẻ của má Sáu suy giảm, nhiều chứng bệnh kinh niên… Các anh lãnh đạo Đoàn Văn công giải phóng tỉnh Cà Mau đưa má Sáu về Cà Mau phụng dưỡng và chữa bệnh. Má Sáu qua đời vào năm 1981, mai táng ở Nghĩa trang từ trần tỉnh Cà Mau.

Với tôi, từ những ngày sống bên má, những ngày tháng do chiến tranh chia xa má và từ ngày má Sáu ra đi vào thế giới vĩnh hằng đến nay đã trên 50 năm, ký ức tôi luôn sáng ngời hình bóng của má. Nhân cách, tấm lòng, niềm tin, đức độ cống hiến, hy sinh cao cả của má Sáu trở thành hình tượng cao cả, thiêng liêng không phai mờ trong ký ức tôi./

Phạm Văn Tri

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.