ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 10-5-25 14:53:28
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Mưu sinh trên dòng kênh Cơi Ba

Báo Cà Mau (CMO) Đã quá trưa ngày đầu tháng 2, ông Phù Tấn Chiến vẫn mặc chiếc quần đùi ướt sũng ngồi trên mũi vỏ composite thở hổn hển sau một hồi xếp lại chồng lú quế để chuẩn bị chuyến bắt cá vào chiều tối nay. Phía bên mé bờ kênh Cơi Ba, người con dâu thứ ba của ông đang loay hoay chắc nước cơm chuẩn bị bữa sáng.

Ông Chiến cứ ngoảnh mặt trông về phía chợ xã Trần Hợi chờ con trai trở lại báo tình hình bán mớ cá vừa mới bắt được vào đêm qua. Nhìn lại dòng kênh Cơi Ba đục ngầu nước, ông lạc quan: “Cả nhà tôi giờ phải bám đoạn kênh này để sinh kế”.

Ông Chiến nay đã ngoài 50 tuổi, quê gốc ở Rạch Cui, xã Khánh Bình Đông, huyện Trần Văn Thời. Gia đình chuyên sinh sống bằng nghề đặt lú trên sông. Bằng kinh nghiệm cả đời mình, ông cho biết, năm nào cả nhà ông cũng chạy quanh các đoạn sông, kênh, rạch ở xứ Trần Văn Thời để đặt lú.

Ông Phù Tấn Chiến bên “ngư cụ” hành nghề săn cá của gia đình. Ảnh: Phong Phú
Ông Tư Lợi (Phan Văn Lợi) hớn hở khi bắt được con thác lác cườm trên 2 kg dưới kênh Cơi Ba. Ảnh: P.Phú

Vào mùa mưa, nước lớn thì ông men theo sông Ông Đốc hay lui về Rạch Ráng, Rạch Lùm, Trùm Thuật, rồi vòng qua Khánh Hải. Đầu mùa hạn thì hoạt động vùng Rạch Cui. Vừa rồi, nhiều con kênh ở xứ Khánh Bình Đông khô cạn, đặt lú không còn tôm cá nên ông tìm đường đưa cả nhà 5 nhân khẩu hướng về Cơi Ba và trụ lại một đoạn kênh ở xã Trần Hợi. Vì đoạn kênh này giờ vẫn còn sâu hơn 1 thước nước.

Đoạn kênh Cơi Ba, ấp Bình Minh 2, qua địa bàn xã Trần Hợi trước đó Nhà nước đưa cơ giới vào thổi 1 đoạn để san lấp mặt bằng cho công trình thiết chế văn hoá xã. Nhờ vậy mà khu vực này nước hãy còn sâu trên 1 thước. Còn lại hầu hết con kênh đều đã kiệt nước. Các phương tiện vận tải thuỷ không còn hoạt động huyên náo như mùa mưa nữa. Chỉ còn lại lưa thưa những chuyến vỏ composite cỡ nhỏ lưu thông.

Như minh chứng cho việc ít xuồng ghe lưu thông, nhìn về phía chiếc xáng cuốc đất cỡ nhỏ đang nhả từng cụm khói đen để cố dùng cần kéo lê 1 chiếc sà lan sắt khác chở xe ủi, anh Đặng Văn Dữ, một người dân ở địa phương nói: “Đó, chiếc sà lan sắt có máy D15 để đạp nước vậy mà còn không thể, phải nhờ đến chiếc xáng cuốc, dùng sức kéo lê từng mét trên đoạn sông nước đặc quánh mùi sình”.

Tiếp lời anh Dữ, người bạn đồng nghiệp thấy lạ nên thốt: "Vậy mà tôi tưởng chiếc xáng múc đất!". Một lần nữa anh Dữ giải thích: "Không đâu! Giờ này mà múc đất dưới lòng sông để tôn tạo, be bờ là nguy hiểm, vì nó gây sạt lở hai bên bờ và mấy công trình lộ. Xứ này mùa khô ít ai dám múc đất lắm!".

Ông Chiến quay sang đống lú chất đầy 2 chiếc vỏ của gia đình loại dài hơn 7 m, nói như than: “4, 5 đêm trước, mỗi đêm cũng kiếm được vài trăm ngàn đồng. Mới đó mà nước đã cạn đi thấy rõ”. 
Người con dâu ông Chiến tiếp lời cha: “Cả nhà chia nhau 2 chiếc vỏ lãi. Sau khi kéo lú thì vừa canh chừng vừa ngủ bệt trên sạp. Những khi ăn, uống thì tấp lên bờ kênh, chỗ nào đất cũng khô nứt vầy hết, sống riết rồi quen!”.

Cá do cha con ông Chiến bắt được bằng cả trăm cái lú là loại cá lóc, cá trê và rô phi. Bữa kha khá cũng thu về vài ba trăm ngàn đồng. Đêm nào ít cũng tầm hai trăm, đủ nuôi sống cả nhà.

Cách nơi tá túc gia đình ông Chiến không xa, vợ chồng ông Tư Lợi (Phan Văn Lợi), sống ở ấp Bình Minh 2, đang thả lưới chuẩn bị bao đống chà. Cách bắt cá bằng phương thức bao chà như ông Tư Lợi ở xứ Bình Minh 2 trên kênh Cơi Ba này ai cũng biết. Tuy thấy đơn giản nhưng lại đòi hỏi nhiều yếu tố đi kèm nên phức tạp. Do vậy mà ít người chọn phương cách này bắt cá kiếm sống.

Ông Tư Lợi cho biết: “Cặm một đống chà chừng bốn năm chục thướt vuông phải cần nhiều cây làm chà và phải biết chọn vị trí để dẫn dụ cá vào trú ngụ. Chuyện cần nữa là phải có sức để vài ngày lại bao lưới, dọn chà bắt cá”.

Nhà ông Lợi mùa hạn này cặm cả thảy 3 đống chà dưới mép kênh Cơi Ba ngay trước cửa nhà. Cứ 5-7 ngày 1 bận, ông và vợ lại hì hục bao lưới dỡ chà bắt cá. Bữa thất thì một đống chà cũng kiếm được hơn chục ký cá. “Đa phần là cá rô phi và rô biển. Hên lắm trúng được vài con thác lác cườm, cá lóc là mừng, hết mệt, vì mấy loại cá dỡ chà thường lớn nên giá cao”, ông Tư Lợi vừa lặn ngụp kéo viền lưới vừa khoe. Mỗi ký cá rô phi, rô biển được bán giá từ 40-50 ngàn đồng, tính sơ sơ 1 đống chà của ông Tư Lợi sau 1 tuần cũng kiếm được 400 ngàn đồng.

Nhiều người dân xứ này trầm trồ khen ông Lợi vì tính cần mẫn và chịu khó, người ta cặm chà phải cần nhiều người, riêng ông chỉ 2 vợ chồng. Ông Lợi chia sẻ: “Mấy năm trước đây người dân xứ này không cặm chà bắt cá vì mùa khô hạn nước kênh Cơi Ba không cạn nhiều như bây giờ. Chỉ năm nay mới bắt đầu cặm lại từ hồi đầu tháng 10 âm lịch và sẽ bắt cá bằng cách này cho đến mưa xuống. Sau đó dọn sạch chà để xuồng ghe tiện lưu thông”.

Đoạn kênh Cơi Ba ở Bình Minh 2 mùa hạn năm nay có vài ba hộ cặm chà như ông Lợi với hơn 20 đống. Nghe cách ông Lợi cùng những lão nông ở đây kể thì đống nào cũng thu hoạch nhiều cá, ai nấy đều phấn khởi.

Như giải thích thêm, bà Tơ vợ ông, cho biết: “Tánh ổng kỹ, nên cặm chà đống nào cũng nhiều cá. Hôm dỡ chà đợt trước đống này kéo lên cả bảy chục ký. Con nào con nấy ú nu thấy phát mê!". Hỏi về gia cảnh, bà Tơ nói: "Nhà tôi cả thảy 4 nhân khẩu, gia sản chỉ 1 công rưỡi đất làm rẫy và chiếc vỏ cùng với cây chài cá. Hết mùa rẫy, ổng lại cầm chài, hết mùa chài thì cặm chà. Cứ vậy mà xoay xở nuôi được hai đứa con ăn học tới chốn như chòm xóm. Đứa con gái lớn vừa tốt nghiệp ngành sư phạm, đang chờ tìm việc làm. Nếu kênh Cơi Ba này hết cá không biết nhà tôi lấy gì sống nữa!”.

Không khỏi giật mình trước nỗ lực của nhiều bà con xóm rẫy nơi đây. Họ bám rẫy mưu sinh, có người cũng phất lên giàu sụ, có người thì đủ ăn. Nhưng vui nhất là xứ ruộng, làm rẫy không ai thất bát, mang nợ, thiếu ăn. Khi hỏi về vụ rẫy mùa khô khắc nghiệt này, bà Tơ vui vẻ cho biết: “Tôi với bà con ở đây chỉ làm hết vụ hoa màu dịp tết rồi nghỉ. Vì trồng rẫy mùa này nắng gắt, thiếu nước tưới nên thu hoạch không lời nhiều”.

Cứ hết hạn, họ trở lại trồng rẫy rồi sinh thêm nhiều phương kế kiếm thêm thu nhập, trồng thêm nhiều loại hoa màu giá trị, tạo nhiều huê lợi. Hết vụ màu lại hành nghề chài, đặt lú rồi dỡ chà. Nhìn phương cách ông Chiến, ông Lợi mưu sinh như họ rất sành thiên nhiên, thổ nhưỡng trên vùng đất Cơi Ba này vậy. Nên dù bằng cách này, cách khác, họ vẫn vui tươi và sinh kế ngay trên mảnh vườn, con kênh. Cứ thế họ đã vượt qua rất nhiều mùa hạn trên dòng kênh Cơi Ba./.

Phóng sự của Phong Phú - Đặng Duẩn

Cà Mau - Ðịa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài cuối: Bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc

Cà Mau hôm nay đổi mới, phát triển từng ngày. Những cán bộ lão thành cách mạng, những bậc cao niên ở Cà Mau mà chúng tôi có dịp gặp, đã trải qua bom đạn chiến tranh, trải qua những ngày tháng Cà Mau còn đầy khó khăn, tất cả đều nói rằng, Cà Mau mình bây giờ đã phát triển nhiều lắm, đời sống Nhân dân đã sung túc hơn trước bội phần. Từ vùng đất hoang vu, nê địa; từ những đau thương, mất mát lớn lao trong kháng chiến; đến nay, Cà Mau đã vươn mình đi lên bằng sức vóc mới, thế và lực mới, để chặng đường phát triển tương lai sẽ làm bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 4: Vùng đất của những sản vật vang danh

Dù lên rừng hay xuống biển, Cà Mau đều sẵn có những đặc sản trứ danh. Nếu chỉ nhắc đến đại khái, nhiều người sẽ chưa thoả dạ hoặc lòng còn hoài nghi, thắc mắc. Sự trù phú của thiên nhiên hoà quyện với quá trình lao động siêng năng, bền bĩ, đúc kết kinh nghiệm và sự sáng tạo tài hoa của lớp lớp con người Cà Mau đã kết tụ nên giá trị và sức sống lâu bền của những sản vật đặc trưng ở vùng đất mới.

Lưu Hữu Phước – Nhạc sĩ tài danh đất Tây Đô

Hai ba thế hệ người Việt Nam hát những ca khúc của nhạc sĩ tài danh Lưu Hữu Phước. Không có cuộc đời nào, tâm hồn nào trên đất nước Việt Nam thân yêu thế kỷ vệ quốc anh hùng mà không được Lưu Hữu Phước giục giã.

Ngày giải phóng Cà Mau

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 3: Bức tranh văn hoá đa sắc

Dù ở vùng đất mới, gốc gác khác biệt, song khi về tới Cà Mau, thế hệ tiền nhân đã sớm ý thức về nguồn cội, quần tụ và cố kết với nhau bằng sợi chỉ đỏ chảy xuyên suốt của nền văn hoá dân tộc Việt Nam bốn ngàn năm: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 2: Con người Cà Mau - Nét duyên xứ sở

Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng: “Con người là chủ thể văn hoá, cách ứng xử của con người với chính mình, với thiên nhiên và các mối quan hệ xã hội định hình nên đặc điểm và tính cách của nền văn hoá ấy”. Ở vùng đất mới Cà Mau, nếu không nói về con người Cà Mau, tính cách và cốt cách của con người Cà Mau thì quả thật là một điều thiếu sót lớn. Hồn cốt quê hương, khí phách của ông cha là nơi hậu thế soi chiếu vào đó để nhận diện được chính mình và khơi mở những chặng đường tương lai của mảnh đất này.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc

Khi Báo Cà Mau đăng loạt ghi chép pha chút hơi hướng khảo cứu này, tỉnh Cà Mau đang hừng hực khí thế, với thế và lực mới vững vàng hoà vào dòng chảy thời đại cùng cả dân tộc, đất nước Việt Nam tiến bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển phồn thịnh, giàu mạnh, hạnh phúc.

Dì tôi - Người đàn bà đi qua hai cuộc kháng chiến

Trước đây không lâu, Báo Cà Mau có đăng bài viết về chuyện bà Hai Ðầm tham gia trận diệt đồn Tân Bằng năm 1946. Trong trận đánh táo bạo này, bà được Chi bộ Thới Bình cài vào đồn giặc Pháp làm nội gián để cùng bộ đội ta thực hiện phương án “nội công ngoại kích”. Bài viết theo lời kể của ông Huỳnh Văn Tứ ở thị trấn Thới Bình, người cùng thế hệ và có mối quan hệ thân tộc với bà Hai Ðầm.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều - Bài cuối: Ðổi mới phương pháp dạy và học

Việc Bộ Giáo dục và Ðào tạo (GD&ÐT) siết chặt quản lý dạy thêm, học thêm theo Thông tư số 29/2024/TT-BGDÐT quy định về dạy thêm, học thêm (Thông tư 29) đã nhận được sự đồng thuận của xã hội. Bởi chính phụ huynh, học sinh và cả các thầy cô giáo nhận ra đã đến lúc cần thay đổi tư duy giáo dục theo hướng mở.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều - Bài 2: Chia nhau trách nhiệm

Ðể siết chặt vấn đề dạy thêm - học thêm, nếu chỉ dựa vào nỗ lực của ngành giáo dục là chưa đủ, mà còn đòi hỏi sự nhìn nhận đúng và sự giám sát của phụ huynh, của xã hội.