Thứ hai, 1-9-25 13:27:59
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Ngày ấy chúng tôi đi

Báo Cà Mau Chiến tranh kết thúc sau 21 năm, tôi kịp về sống giữa lòng mẹ như những ngày thơ bé, kịp quấn trên đầu chiếc khăn tang khi mẹ qua đời. Tôi cũng kịp nhận ra niềm hạnh phúc của đứa con được sống bên cạnh mẹ.

Ngày ấy ra đi tôi vừa tròn 13 tuổi. Tôi không quên ánh trăng rằm phủ xuống cây cao nơi bến sông nhà. Ðứng dưới đó là mẹ tôi, người nín lặng tiễn chân con. Cả ba tôi cũng lặng im khi đẩy chiếc xuồng con tách bến. Nhưng trên đường đưa tôi lên huyện, điểm tập trung đầu tiên, ba đã căn dặn tôi thật nhiều điều. Háo hức là vậy nhưng tôi đã khóc. Tôi khóc mà không dám bật thành tiếng, vì ba nói, nếu con không muốn đi thì ta trở lại.

Mà tôi thì có khát vọng từ lâu được đi ra Bắc, được gặp Bác Hồ...

Những học sinh chúng tôi thời đó ra đi theo chủ trương của Ðảng, Bác Hồ, Nhà nước nhằm tạo lực lượng để xây dựng miền Nam sau ngày giải phóng. Là con em của cán bộ, chiến sĩ ưu tú, chúng tôi được Bác Hồ, Ðảng, Nhân dân miền Bắc gọi là những “hạt giống đỏ” của miền Nam.

Thiếu nhi Tây Nam Bộ những ngày đầu tập kết tại Thanh Hoá. Ảnh tư liệu

Thiếu nhi Tây Nam Bộ những ngày đầu tập kết tại Thanh Hoá. Ảnh tư liệu

Ðã có lớp lớp học sinh miền Nam chúng tôi trở về quê hương chiến đấu, bị tù đày và đã nằm xuống rải rác đây đó trên các chiến trường B. Kể cả những người thầy dạy chúng tôi cũng lần lượt lên đường. Có thầy đã hy sinh ngay trên mảnh đất Cà Mau này, như thầy Hiền. Có thầy sau giải phóng làm quản lý nhà trường, như thầy Nguyễn Công Thiêm, nguyên Hiệu trưởng Trường THPT Hồ Thị Kỷ.

Ngày ấy chúng tôi đi háo hức niềm vui và cháy lòng nỗi nhớ. Ba tôi nói là 2 năm nhưng tính từ ngày ký Hiệp định Giơnevơ thì chỉ còn 18 tháng. 18 tháng không phải là dài nếu nó không trở thành 21 năm. 21 năm cháy lòng đất nước bởi chiến tranh, cháy lòng con người bởi kẻ Nam người Bắc. Nhiều rất nhiều gia đình miền Bắc có con em vào Nam chiến đấu cũng khắc khoải đợi chờ. Bởi cuộc chiến tranh này đâu của riêng ai, mà là của tất cả những người Việt Nam yêu nước, của cả dân tộc Việt Nam.

Ai có ở trong tình cảnh này mới thấu hiểu tình quê hương, nỗi nhớ gia đình của lũ trẻ chúng tôi. 21 năm, chúng tôi đã từng gắn trên áo mình miếng vải tang đen cho vụ thảm sát Phú Lợi, vụ B52 rải thảm ở huyện Trần Văn Thời; các vụ thảm sát dã man ở Hướng Ðiền, Vĩnh Trinh, Ngân Sơn, Sơn Mỹ... Và lần lượt lần lượt cha bạn này, chú bạn kia bị luật 10/59 tàn sát.

Ngày ấy chúng tôi đi chỉ là một lũ nhỏ tứ xứ gom về. Kênh xáng Chắc Băng là điểm tập trung khá lâu. Ở đó, chúng tôi được tổ chức trong các nhóm tổ đoàn, xen lẫn nam nữ, lớn bé, thành thị, nông thôn, miễn là ở độ tuổi học sinh. Ở Chắc Băng chúng tôi được hướng dẫn cách sống tập thể. Từ sáng dậy tập thể dục, vệ sinh nơi ở, cách ăn tập trung, dùng đũa hai đầu. Rồi tập đi đều, sinh hoạt, vui chơi tập thể... Chẳng còn thời gian để chúng tôi nhớ nhà. Chuyến tàu chúng tôi đi là tiết trời tháng Chạp, ngoài Bắc đã lạnh cắt da. Chúng tôi được chuẩn bị trước tinh thần, còn đồ ấm ra Sầm Sơn mới lãnh.

Ở Chắc Băng, đoàn chúng tôi lần lượt đông lên vì các nơi còn tiếp tục đưa con em mình đến. Sau những ngày ở Chắc Băng, đoàn chuyển xuống Rạch Lùm. Nghĩa là từng chặng chúng tôi nhích dần về cửa Sông Ðốc. Những ngày ở Chắc Băng thật vui. Lúc ở Rạch Lùm vì nhà rời rạc không còn sinh hoạt, chỉ có đợi chờ nên thật buồn. Nỗi nhớ nhà trào lên khiến nhiều hôm tôi cứ muốn tìm đường về. May mà chưa đầy tuần lễ chúng tôi được lệnh chuyển ra Sông Ðốc, xuống tàu.

Ðó là một buổi sáng trời buồn, có vài hạt mưa theo kiểu mưa bụi cuối đông. Bến Sông Ðốc lúc đó người đông nghịt. Ðông nhất là bộ đội, cán bộ các cơ quan và gia đình họ, sau là những đoàn học sinh của các tỉnh miền Tây Nam Bộ chúng tôi.

Phía người tiễn cũng đông không kém. Nổi bật là các cô chú trong ban tổ chức tiễn đưa. Kế nữa là người địa phương Sông Ðốc được huy động giúp đỡ, hỗ trợ công tác tiễn đưa và thân nhân những người tập kết.

Tôi nhớ hoài hình ảnh các mẹ, các chị cầm những chiếc khăn rằn lau nước mắt, rồi quàng vội cho người thân. Họ ôm hôn nhau, họ nắm níu nhau thật chặt, nửa khóc nửa cười trong giờ chia tay. Ðể rồi sau đó những chiếc tàu há mồm, những chiếc ghe buồm tách khỏi bến đưa các đoàn người ra tàu lớn.

Còn lại là hai ngón tay, hai ngón tay biểu tượng hai năm của kẻ ở người đi hẹn ngày hội ngộ. Hai ngón tay cứ thế vẫy hoài trong nỗi nhớ.

Bến Sông Ðốc thật vui vì băng cờ, biểu ngữ rợp trời nơi trụ sở, nhà dân, bến sông và trên các con tàu, chiếc ghe buồm đưa tiễn. Kể cả những giọt nước mắt cũng lấp lánh niềm vui và vinh hạnh.

Ngoài xa kia, một chiếc tàu lớn của Liên Xô đang đợi. Cán bộ, bộ đội ra đến nơi lần lượt leo lên chiếc thang dây dài thả từ boong tàu xuống sát mặt nước. Còn lũ nhỏ chúng tôi thì được người lớn ẵm chuyển từ người này qua người khác để đưa lên tàu.

Học sinh được xếp ở tầng 1, nơi ít bị dạ sóng nhất. Còn các gia đình ở tầng 2. Các chú bộ đội nằm tuốt dưới hầm tàu.

Chiếc tàu lớn có bếp nấu, phòng ăn, phòng vui chơi giải trí, phòng tập thể dục, nơi đánh bóng bàn, bóng rổ, cầu lông. Chiều buồn, lên boong tàu đi lòng vòng xem biển.

Bình thường tàu chạy từ Sông Ðốc ra Cửa Lò hoặc Sầm Sơn chỉ khoảng 3 ngày đêm. Chuyến tàu của chúng tôi phải đương đầu với bão, 9 ngày đêm, ngày 9/1/1955 dương lịch mới cập được vào Sầm Sơn (Thanh Hoá).

Hôm tàu cập bến Sầm Sơn, ban tổ chức và bà con tại chỗ ra đón đông nghịt. Chúng tôi được ẵm xuống thuyền nan và đưa vào bờ về các lán trại (với những sạp dài, rộng, lót kỹ những lớp rơm dày cho đỡ lạnh).

Có câu chuyện vui, do bất đồng ngôn ngữ, là chúng tôi mừng thầm khi được hứa về lán trại nghỉ ngơi rồi cho uống nước chè. Chúng tôi tưởng được uống chè sau chuyến đi mệt, nào ngờ chè là trà, chát đắng.

Tiết trời lạnh, học sinh chúng tôi chui vào những chiếc áo bông, đội mũ ấm vào, không còn biết ai là ai nữa, nếu không gọi tên nhau.

Nghỉ dưỡng sức, ăn uống bồi dưỡng ở Sầm Sơn một tuần, chúng tôi được đưa về Nông Cống (Thanh Hoá) ở trong các nhà dân. Lúc bấy giờ chúng tôi đã được phân ra theo lớn nhỏ, cấp học để vào các trường mang số hiệu cụ thể. Như Trường Học sinh miền Nam số 1, số 2, số 3... đến số 27, 28. Và chúng tôi buộc phải tu dưỡng, buộc phải học lần lượt hết các cấp phổ thông, vào các trường đại học trong hoặc ngoài nước.

Học cho thành tài, chúng tôi chỉ lo bao nhiêu đó. Còn cái ăn, cái mặc, sách vở cho học hành, tất cả có Bác Hồ, Ðảng và Nhân dân miền Bắc lo hết cho chúng tôi...

Giờ đây những học sinh miền Nam ngày xưa về quê hương cống hiến, vẫn sống gắn bó với nhau, giúp đỡ nhau trong cái tuổi xế chiều. Hết cống hiến cho đời, họ làm điểm tựa, bệ phóng cho con cháu mình. Họ mong sao những người thân sống có ích, trung thực và nỗ lực cho đời như họ đã từng sống./.


Ðàm Thị Ngọc Thơ

 

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.

Những chi bộ đảng đầu tiên ở Cà Mau

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930) dưới sự sáng lập và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam với con đường kiên định: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.