Thứ hai, 8-12-25 16:32:46
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Ngày ấy chúng tôi đi

Báo Cà Mau Chiến tranh kết thúc sau 21 năm, tôi kịp về sống giữa lòng mẹ như những ngày thơ bé, kịp quấn trên đầu chiếc khăn tang khi mẹ qua đời. Tôi cũng kịp nhận ra niềm hạnh phúc của đứa con được sống bên cạnh mẹ.

Ngày ấy ra đi tôi vừa tròn 13 tuổi. Tôi không quên ánh trăng rằm phủ xuống cây cao nơi bến sông nhà. Ðứng dưới đó là mẹ tôi, người nín lặng tiễn chân con. Cả ba tôi cũng lặng im khi đẩy chiếc xuồng con tách bến. Nhưng trên đường đưa tôi lên huyện, điểm tập trung đầu tiên, ba đã căn dặn tôi thật nhiều điều. Háo hức là vậy nhưng tôi đã khóc. Tôi khóc mà không dám bật thành tiếng, vì ba nói, nếu con không muốn đi thì ta trở lại.

Mà tôi thì có khát vọng từ lâu được đi ra Bắc, được gặp Bác Hồ...

Những học sinh chúng tôi thời đó ra đi theo chủ trương của Ðảng, Bác Hồ, Nhà nước nhằm tạo lực lượng để xây dựng miền Nam sau ngày giải phóng. Là con em của cán bộ, chiến sĩ ưu tú, chúng tôi được Bác Hồ, Ðảng, Nhân dân miền Bắc gọi là những “hạt giống đỏ” của miền Nam.

Thiếu nhi Tây Nam Bộ những ngày đầu tập kết tại Thanh Hoá. Ảnh tư liệu

Thiếu nhi Tây Nam Bộ những ngày đầu tập kết tại Thanh Hoá. Ảnh tư liệu

Ðã có lớp lớp học sinh miền Nam chúng tôi trở về quê hương chiến đấu, bị tù đày và đã nằm xuống rải rác đây đó trên các chiến trường B. Kể cả những người thầy dạy chúng tôi cũng lần lượt lên đường. Có thầy đã hy sinh ngay trên mảnh đất Cà Mau này, như thầy Hiền. Có thầy sau giải phóng làm quản lý nhà trường, như thầy Nguyễn Công Thiêm, nguyên Hiệu trưởng Trường THPT Hồ Thị Kỷ.

Ngày ấy chúng tôi đi háo hức niềm vui và cháy lòng nỗi nhớ. Ba tôi nói là 2 năm nhưng tính từ ngày ký Hiệp định Giơnevơ thì chỉ còn 18 tháng. 18 tháng không phải là dài nếu nó không trở thành 21 năm. 21 năm cháy lòng đất nước bởi chiến tranh, cháy lòng con người bởi kẻ Nam người Bắc. Nhiều rất nhiều gia đình miền Bắc có con em vào Nam chiến đấu cũng khắc khoải đợi chờ. Bởi cuộc chiến tranh này đâu của riêng ai, mà là của tất cả những người Việt Nam yêu nước, của cả dân tộc Việt Nam.

Ai có ở trong tình cảnh này mới thấu hiểu tình quê hương, nỗi nhớ gia đình của lũ trẻ chúng tôi. 21 năm, chúng tôi đã từng gắn trên áo mình miếng vải tang đen cho vụ thảm sát Phú Lợi, vụ B52 rải thảm ở huyện Trần Văn Thời; các vụ thảm sát dã man ở Hướng Ðiền, Vĩnh Trinh, Ngân Sơn, Sơn Mỹ... Và lần lượt lần lượt cha bạn này, chú bạn kia bị luật 10/59 tàn sát.

Ngày ấy chúng tôi đi chỉ là một lũ nhỏ tứ xứ gom về. Kênh xáng Chắc Băng là điểm tập trung khá lâu. Ở đó, chúng tôi được tổ chức trong các nhóm tổ đoàn, xen lẫn nam nữ, lớn bé, thành thị, nông thôn, miễn là ở độ tuổi học sinh. Ở Chắc Băng chúng tôi được hướng dẫn cách sống tập thể. Từ sáng dậy tập thể dục, vệ sinh nơi ở, cách ăn tập trung, dùng đũa hai đầu. Rồi tập đi đều, sinh hoạt, vui chơi tập thể... Chẳng còn thời gian để chúng tôi nhớ nhà. Chuyến tàu chúng tôi đi là tiết trời tháng Chạp, ngoài Bắc đã lạnh cắt da. Chúng tôi được chuẩn bị trước tinh thần, còn đồ ấm ra Sầm Sơn mới lãnh.

Ở Chắc Băng, đoàn chúng tôi lần lượt đông lên vì các nơi còn tiếp tục đưa con em mình đến. Sau những ngày ở Chắc Băng, đoàn chuyển xuống Rạch Lùm. Nghĩa là từng chặng chúng tôi nhích dần về cửa Sông Ðốc. Những ngày ở Chắc Băng thật vui. Lúc ở Rạch Lùm vì nhà rời rạc không còn sinh hoạt, chỉ có đợi chờ nên thật buồn. Nỗi nhớ nhà trào lên khiến nhiều hôm tôi cứ muốn tìm đường về. May mà chưa đầy tuần lễ chúng tôi được lệnh chuyển ra Sông Ðốc, xuống tàu.

Ðó là một buổi sáng trời buồn, có vài hạt mưa theo kiểu mưa bụi cuối đông. Bến Sông Ðốc lúc đó người đông nghịt. Ðông nhất là bộ đội, cán bộ các cơ quan và gia đình họ, sau là những đoàn học sinh của các tỉnh miền Tây Nam Bộ chúng tôi.

Phía người tiễn cũng đông không kém. Nổi bật là các cô chú trong ban tổ chức tiễn đưa. Kế nữa là người địa phương Sông Ðốc được huy động giúp đỡ, hỗ trợ công tác tiễn đưa và thân nhân những người tập kết.

Tôi nhớ hoài hình ảnh các mẹ, các chị cầm những chiếc khăn rằn lau nước mắt, rồi quàng vội cho người thân. Họ ôm hôn nhau, họ nắm níu nhau thật chặt, nửa khóc nửa cười trong giờ chia tay. Ðể rồi sau đó những chiếc tàu há mồm, những chiếc ghe buồm tách khỏi bến đưa các đoàn người ra tàu lớn.

Còn lại là hai ngón tay, hai ngón tay biểu tượng hai năm của kẻ ở người đi hẹn ngày hội ngộ. Hai ngón tay cứ thế vẫy hoài trong nỗi nhớ.

Bến Sông Ðốc thật vui vì băng cờ, biểu ngữ rợp trời nơi trụ sở, nhà dân, bến sông và trên các con tàu, chiếc ghe buồm đưa tiễn. Kể cả những giọt nước mắt cũng lấp lánh niềm vui và vinh hạnh.

Ngoài xa kia, một chiếc tàu lớn của Liên Xô đang đợi. Cán bộ, bộ đội ra đến nơi lần lượt leo lên chiếc thang dây dài thả từ boong tàu xuống sát mặt nước. Còn lũ nhỏ chúng tôi thì được người lớn ẵm chuyển từ người này qua người khác để đưa lên tàu.

Học sinh được xếp ở tầng 1, nơi ít bị dạ sóng nhất. Còn các gia đình ở tầng 2. Các chú bộ đội nằm tuốt dưới hầm tàu.

Chiếc tàu lớn có bếp nấu, phòng ăn, phòng vui chơi giải trí, phòng tập thể dục, nơi đánh bóng bàn, bóng rổ, cầu lông. Chiều buồn, lên boong tàu đi lòng vòng xem biển.

Bình thường tàu chạy từ Sông Ðốc ra Cửa Lò hoặc Sầm Sơn chỉ khoảng 3 ngày đêm. Chuyến tàu của chúng tôi phải đương đầu với bão, 9 ngày đêm, ngày 9/1/1955 dương lịch mới cập được vào Sầm Sơn (Thanh Hoá).

Hôm tàu cập bến Sầm Sơn, ban tổ chức và bà con tại chỗ ra đón đông nghịt. Chúng tôi được ẵm xuống thuyền nan và đưa vào bờ về các lán trại (với những sạp dài, rộng, lót kỹ những lớp rơm dày cho đỡ lạnh).

Có câu chuyện vui, do bất đồng ngôn ngữ, là chúng tôi mừng thầm khi được hứa về lán trại nghỉ ngơi rồi cho uống nước chè. Chúng tôi tưởng được uống chè sau chuyến đi mệt, nào ngờ chè là trà, chát đắng.

Tiết trời lạnh, học sinh chúng tôi chui vào những chiếc áo bông, đội mũ ấm vào, không còn biết ai là ai nữa, nếu không gọi tên nhau.

Nghỉ dưỡng sức, ăn uống bồi dưỡng ở Sầm Sơn một tuần, chúng tôi được đưa về Nông Cống (Thanh Hoá) ở trong các nhà dân. Lúc bấy giờ chúng tôi đã được phân ra theo lớn nhỏ, cấp học để vào các trường mang số hiệu cụ thể. Như Trường Học sinh miền Nam số 1, số 2, số 3... đến số 27, 28. Và chúng tôi buộc phải tu dưỡng, buộc phải học lần lượt hết các cấp phổ thông, vào các trường đại học trong hoặc ngoài nước.

Học cho thành tài, chúng tôi chỉ lo bao nhiêu đó. Còn cái ăn, cái mặc, sách vở cho học hành, tất cả có Bác Hồ, Ðảng và Nhân dân miền Bắc lo hết cho chúng tôi...

Giờ đây những học sinh miền Nam ngày xưa về quê hương cống hiến, vẫn sống gắn bó với nhau, giúp đỡ nhau trong cái tuổi xế chiều. Hết cống hiến cho đời, họ làm điểm tựa, bệ phóng cho con cháu mình. Họ mong sao những người thân sống có ích, trung thực và nỗ lực cho đời như họ đã từng sống./.


Ðàm Thị Ngọc Thơ

 

Nhớ mái trường thời chiến

Giữa năm 1967, tôi được địa phương chọn đưa đi học Trường Bổ túc văn hoá tu nghiệp sư phạm huyện Trần Văn Thời, đào tạo giáo viên cho cơ sở.

Nghĩa tình son sắt, vượt thời gian

Mối quan hệ kết nghĩa giữa Ninh Bình (miền Bắc hậu phương) và Bạc Liêu (miền Nam tiền tuyến, nay là tỉnh Cà Mau) là biểu tượng mẫu mực của tình đoàn kết Bắc - Nam, hưởng ứng phong trào kết nghĩa giữa các tỉnh do Trung ương Ðảng phát động năm 1960. Vượt qua khoảng cách địa lý, tình nghĩa keo sơn này được hun đúc và phát triển bền vững từ những năm tháng kháng chiến đến ngày nay.

Treo cờ dụ địch

Hướng tới ngày kỷ niệm Chiến thắng Ðầm Dơi - Cái Nước - Chà Là (23/11/1963), tôi xin viết lại câu chuyện treo cờ dụ địch, ghi theo lời kể của đồng chí Châu Thái Biết, nguyên Tiểu đội trưởng Trinh sát đặc công, Tiểu đoàn 306 anh hùng (đã mất cách đây gần 3 năm), như sự tri ân những người trực tiếp làm nên chiến công bất tử trên mảnh đất Cà Mau giàu truyền thống cách mạng.

Thương về đồng đội

Những ngày tháng 10, mưa giăng đầy trời, lòng người cũng thường hoài niệm về quá khứ. Đội Văn nghệ Thị đội Cà Mau năm xưa, những cựu chiến binh tuổi quá lục tuần lại quây quần bên nhau cùng hát, múa, tưởng nhớ đồng đội đã hy sinh.

Chiếc khăn rằn của má Út Bình 

Bằng duyên may lớn, tôi đã gặp được bà Nguyễn Thị Bình, bí danh Út Bình - “Bà má Chính uỷ”, tại căn nhà người thân của bà ở phường An Xuyên. 99 tuổi đời, 77 năm tuổi Đảng, bà Út Bình là tấm gương ngời sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đức hy sinh cao cả và tấm lòng người phụ nữ Nam Bộ nói riêng, phụ nữ Việt Nam nói chung.

Nhớ năm tháng ấy

Hồi đó, tôi trốn nhà đi Thanh niên xung phong chớ ba má tôi đâu có cho. Tôi lên Xã đoàn Phong Lạc, gia đình đi theo lên kiếm bắt về. Lúc đó tôi đang ở nhà anh Lự, nghe ba má tôi lên kiếm, tôi chui vô rẫy mía trốn. Anh Hai, anh Sáu của tôi hy sinh năm 1970. Anh Ba tôi, tức anh Ba Phú, lúc đó đang công tác ở Huyện đoàn Cái Nước cho nên nhà đâu còn ai, tôi đi Thanh niên xung phong năm đó mới có 15 tuổi hà, ba má cưng tôi lắm!

Sáng mãi di nguyện của Người

Tháng 5/1965, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đặt bút viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc, được Người gọi là “để lại mấy lời....” phòng khi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Ðảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Dấu ấn hoạt động đồng chí Võ Văn Kiệt tại Cà Mau

Ðồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, người được biết đến với bí danh “chú Sáu Dân” thân thương. Đồng chí đã hoạt động cách mạng, gắn bó với mảnh đất, con người Cà Mau.Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử lưu dấu “chú Sáu Dân” với niềm tri ân, tưởng nhớ của người dân Cà Mau với đồng chí, gồm Di tích cấp tỉnh Nơi ở và Làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt, ở xã U Minh và Di tích Quốc gia đặc biệt Căn cứ Cái Chanh, ở xã Ninh Thạnh Lợi.

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.