ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 18-1-25 17:50:34
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Nghĩa tình phụ nữ xứ Thanh

Báo Cà Mau Cách đây 70 năm, năm 1954, thực hiện chủ trương của Ðảng và Bác Hồ, tỉnh Thanh Hoá đón nhận con em cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc học tập, để đào tạo đội ngũ cán bộ cho sự nghiệp giải phóng miền Nam và cả nước sau này. Tại Sầm Sơn, chị em trên địa bàn tỉnh, từng đoàn người đã đem theo cơm ngô, cơm khoai đi đón tiếp. Khi xuống thuyền, nhiều chị tự nguyện cõng thương binh vào bờ, đỡ từng cái ba lô, từng túi gạo; các mẹ đến quạt cho bộ đội, thiếu nhi... như đón người thân trở về.

Khi bà con miền Nam về đây, Nhân dân các địa phương, chủ yếu là phụ nữ, đã nhiệt tình đón tiếp. Các gia đình để dành cơm, khoai... xung phong săn sóc anh em thương binh đau ốm. Nhân dân khắp nơi trong tỉnh Thanh Hoá đã tích cực phục vụ, cung cấp đầy đủ nhu cầu về ăn, mặc. Từ tháng 9/1954 đến tháng 5/1955, trong công tác đón tiếp, giúp đỡ cán bộ, bộ đội và đồng bào miền Nam ra tập kết, Nhân dân huyện Nông Cống, Ðông Sơn đã cung cấp hơn 600 con bò, 700 con heo, 15.800 con gà, vịt, ngan và 12 vạn quả trứng. Nhân dân các huyện Như Xuân, Cẩm Thuỷ cung cấp trên 1 vạn cây gỗ củi, trên 3 vạn gánh củi và 255 tạ củi. Nhân dân các huyện Hà Trung, Quảng Xương, Tĩnh Gia, Hậu Lộc, Hoằng Hoá cung cấp gần 20 vạn bao thuốc lá, trên 1 vạn ký cà chua, 6 tấn su hào, 11 ngàn cái bắp cải, 3 tấn cá... Các huyện miền núi cung cấp hàng chục bè luồng, hàng vạn lá kè để xây dựng hàng trăm ngôi nhà với hàng ngàn gian.

Nhân dân tỉnh Thanh Hoá đã cung cấp một số lượng lớn về chăn, màn, quần, áo, chiếu, trong đó huyện Quảng Xương, Nga Sơn đã cung cấp 8.384 đôi chiếu các loại; huyện Thọ Xuân, Hoằng Hoá, Thiệu Hoá, Yên Ðịnh dệt trên 1 triệu mét vải màn bọc chăn, 20 vạn mét màn rộng, may trên 2,8 triệu cái màn một và 1 ngàn cái màn đôi trong 15 ngày, với 300 người thợ may. Thị xã Thanh Hoá và các huyện Hoằng Hoá, Quảng Xương, Ðông Sơn đã may trên 4 vạn bộ quần áo các loại. Riêng phụ nữ thị xã đã đan được 5.142 cái áo len các loại, đóng 6.161 đôi dép cho các em học sinh...

Toàn tỉnh đã đón 45 chuyến tàu, gồm tổng số 79.996 người (trong đó có 47.346 người là cán bộ, bộ đội; 1.775 thương binh; 5.922 học sinh và 1.443 gia đình cán bộ)[1].

Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh Thanh Hoá dâng hương tại Di tích lịch sử Quốc gia Ðền Ðồng Cổ, xã Yên Thọ, huyện Yên Ðịnh. Ảnh: LÊ HÀ

Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh Thanh Hoá dâng hương tại Di tích lịch sử Quốc gia Ðền Ðồng Cổ, xã Yên Thọ, huyện Yên Ðịnh. Ảnh: LÊ HÀ

Trong điều kiện còn khó khăn nhưng Nhân dân Thanh Hoá nói chung, lực lượng phụ nữ nói riêng, đã góp sức lực, của cải vào việc đón tiếp, giúp đỡ đồng bào, cán bộ, chiến sĩ miền Nam ra tập kết. Việc làm này đã khắc sâu tình cảm Bắc - Nam ruột thịt, tác động tích cực đối với cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam, góp phần đưa cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà mau chóng đến ngày thắng lợi.

Những đóng góp lớn lao đó của Nhân dân Thanh Hoá có phần không nhỏ từ những người mẹ, người chị, người em nơi đây. Sống xa quê hương, xa những người thân yêu nhất, con em cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền Nam ở đủ mọi lứa tuổi đã ra miền Bắc và tìm thấy những người ruột thịt mới trong những gia đình trên quê hương Thanh Hoá. Họ đã dành những điều kiện tốt nhất để giúp con em miền Nam thích nghi với điều kiện, hoàn cảnh, sinh hoạt trên đất Bắc. Với vai trò là người mẹ, người vợ, người chị, người em gái trong mỗi gia đình, những người mẹ xứ Thanh nói riêng và những người mẹ trên đất Bắc nói chung đã chăm sóc, sẻ chia, đùm bọc, thương yêu những người con miền Nam như những người con ruột thịt trong gia đình...

 Khi mùa đông đến, lo lắng cho những người con, người anh, người em của mình không quen với cái giá lạnh của thời tiết miền Bắc, các bà, các mẹ, các chị, các em lại cùng nhau may từng chiếc áo ấm, đan từng chiếc khăn len... mong sưởi ấm những ngày đông giá rét trên đất Bắc. Biết các em học sinh có câu cửa miệng "ngày Bắc, đêm Nam", ban ngày vẫn học tập, vui chơi, sinh hoạt bình thường, nhưng đêm về, nhiều học sinh khóc ướt gối vì nhớ ba mẹ, thương quê hương, xóm làng bị giặc giày xéo, các bà, các mẹ lại trở thành những bờ vai nương tựa cho các em khi đêm về, để các em vơi bớt nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương.

Trong lúc quân và dân miền Nam đánh giặc, hàng chục ngàn học sinh miền Nam đã lớn lên trong sự che chở, thương yêu của người dân miền Bắc. Ðiều sưởi ấm tâm hồn của những người con miền Nam xa nhà chính là tình cảm của người miền Bắc. Nhờ có đồng bào miền Bắc đùm bọc, hy sinh, tận tình nuôi dưỡng, đã có những thế hệ học sinh miền Nam thành tài ngày nay. Trong đó, nhiều người đã trở thành cán bộ, lãnh đạo các cấp, các tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp, các nhà khoa học đầu ngành ở nhiều lĩnh vực, các văn nghệ sĩ, nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhà báo nổi tiếng, nhiều doanh nhân tài ba, nhiều người đã trở thành Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, Anh hùng Lao động, góp phần làm rạng danh quê hương, đất nước.

(Trích “Vai trò của các cấp Hội Phụ nữ tỉnh Thanh Hoá trong việc đón tiếp, giúp đỡ đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam ra Bắc tập kết)

 [1]. “Báo cáo tổng kết công tác đón tiếp quân dân miền Nam", tài liệu lưu tại Trung tâm Văn thư Lưu trữ, Sở Nội vụ tỉnh Thanh Hoá.

 

Chí Công

 

Miền nhớ thiêng liêng

Chuỗi hoạt động Kỷ niệm 70 năm Sự kiện tập kết ra Bắc diễn ra trang trọng, ý nghĩa trên đất Cà Mau. Ngược miền ký ức, những cán bộ, chiến sĩ, học sinh, đồng bào miền Nam như được sống lại giai đoạn thiêng liêng của cuộc chuyển quân lịch sử. Họ gặp lại nhau, cảm xúc dâng trào, bao câu chuyện về những ngày chiến đấu, lao động, học tập nối mạch ùa về...

Ðại tá từ du kích

Trong các bạn bè, đồng đội cùng hàm, trên dưới tuổi tám mươi, Ðại tá Trần Công Bình (Út Bình) có lẽ là người đậm chất từ du kích, tên ông gắn liền với du kích Thạnh Phú một thời lẫy lừng chốt chặn phía Nam tỉnh lỵ An Xuyên, bảo vệ vùng giải phóng Nhà Phấn, Rạch Mũi trong tầm đại bác của địch.

Nửa đời tìm nhau

Ở các địa phương miền Tây Nam Bộ, chúng tôi tìm gặp một số cán bộ lão thành, học sinh miền Nam (HSMN) tập kết ra Bắc năm 1954. Trong câu chuyện kể của họ, ngoài ký ức đẹp về tấm lòng Nhân dân miền Bắc dành cho HSMN tham gia học tập, từ nơi ở, chén cơm, manh áo... còn là những mối tình “cơ duyên trời định”. Người còn sống giờ tuổi đã ngoài 80, nhưng khi nhắc nhớ về kỷ niệm ở miền Bắc, họ lại ngời lên những ký ức năm xưa.

Người về bến cũ

Bến Sông Ðốc - địa danh gắn liền với sự kiện lịch sử chuyến tàu tập kết, những ngày cuối năm 2024 chứng kiến cuộc hội ngộ đặc biệt của cựu học sinh miền Nam. Họ, những người từng bước lên tàu rời quê hương cách đây 70 năm để ra Bắc học tập, cống hiến, nay trở lại bến xưa với mái đầu bạc trắng và trái tim ngập tràn cảm xúc.

Về căn cứ xưa, nghe kể chuyện chở che bộ đội đánh giặc...

Trong kháng chiến chống Mỹ, Xẻo Trê (thuộc ấp Lý Ấn, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước) được chọn làm nơi đóng quân của Ban Chỉ huy Tỉnh đội. Suốt 9 năm (1964-1973), căn cứ Xẻo Trê vẫn giữ được bí mật, an toàn tuyệt đối, tạo sức mạnh để tấn công kẻ địch. Ðó là nhờ vào lòng dân luôn đùm bọc che chở, hết lòng vì cách mạng, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ khu căn cứ.

Nơi lý tưởng để giáo dục truyền thống

Di tích lịch sử cấp tỉnh “Cây me Rạch Gốc” (toạ lạc tại ấp Rạch Gốc, xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển), địa điểm minh chứng cho truyền thống lịch sử của vùng đất Tân Ân, được chính quyền địa phương và người dân nơi đây trân trọng, giữ gìn và phát huy giá trị.

Biểu tượng bất tử

Đền thờ 10 Anh hùng liệt sĩ Khởi nghĩa Hòn Khoai uy nghiêm giữa lòng TP Cà Mau. Công trình là biểu tượng bất tử của truyền thống anh hùng cách mạng, trang sử vàng của vùng đất cuối trời cực Nam Tổ quốc.

Thư từ Vàm Lũng

Thư từ Vàm Lũng

Truyền thống anh hùng vinh quang tiếp nối

Trong tiết trời se lạnh mỗi độ xuân về, trong mỗi người con đất Việt luôn nguyên vẹn niềm vui, tự hào khi có Ðảng. Ðặc biệt hơn, bước sang năm 2025, đất nước ta đón sự kiện quan trọng là đại hội Ðảng các cấp, đây là dịp để Ðảng ta tiếp tục chọn ra những cán bộ, đảng viên ưu tú tham gia thực hiện trách nhiệm thiêng liêng vì mục tiêu: làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ngôi trường Nhà Máy

Vừa rời khỏi lớp Giáo khoa của Nha Giáo dục Nam Bộ đào tạo giáo viên cấp tốc 3 tháng ở vàm Rạch Ráng (do Tiến sĩ Hoàng Xuân Nhị, Giám đốc Nha Giáo dục Nam Bộ làm Hiệu trưởng), tôi được chú Nguyễn Tạo, Trưởng ty Giáo dục Bạc Liêu, giao nhận nhiệm vụ Hiệu trưởng Trường Tiểu học ấp Nhà Máy, xã Khánh Bình Tây (gồm lớp Nhì A, lớp Nhì B, lớp Ba, lớp Tư, có trên 150 học sinh hết thảy). Hôm đó là ngày lịch sử vẻ vang của đất nước.