Ung thư vú là loại ung thư thường gặp thứ hai trên toàn cầu, là ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ, ước tính 1,67 triệu ca mới vào năm 2012 (25% các loại ung thư). Trong thập niên vừa qua, các nhà nghiên cứu đã giúp nhân loại hiểu rõ hơn về bản chất căn bệnh, đặc biệt các gen ER, PR, HER2, BRCA1, BRCA2. Những hiểu biết mới này đã dẫn đến những ứng dụng điều trị ung thư vú hiệu quả hơn. Ngày nay, tại Hoa kỳ, trên 80% bệnh nhân ung thư vú chưa bị di căn sống lâu hơn 5 năm.
Ung thư vú là loại ung thư thường gặp thứ hai trên toàn cầu, là ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ, ước tính 1,67 triệu ca mới vào năm 2012 (25% các loại ung thư). Trong thập niên vừa qua, các nhà nghiên cứu đã giúp nhân loại hiểu rõ hơn về bản chất căn bệnh, đặc biệt các gen ER, PR, HER2, BRCA1, BRCA2. Những hiểu biết mới này đã dẫn đến những ứng dụng điều trị ung thư vú hiệu quả hơn. Ngày nay, tại Hoa kỳ, trên 80% bệnh nhân ung thư vú chưa bị di căn sống lâu hơn 5 năm.
Vai trò của thụ thể nội tiết ER và PR
Thụ thể estrogen (ER) vai trò như một cái cửa trên tế bào mà chìa khoá là estrogen. Ðây là một hóc-môn do buồng trứng sản xuất. Khi estrogen đến gắn vào ER sẽ làm cho tế bào sinh sôi. Thụ thể estrogen còn hoạt động trong các tế bào của các cơ quan sinh dục như buồng trứng.
Thụ thể progesteron (PR) cũng nằm trên màng tế bào và là nơi gắn của progesteron có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng, phát triển của tuyến vú. Khi khối ung thư vú có kết quả thử về là ER hoặc PR dương tính thì các thuốc nội tiết dạng uống hằng ngày như tamoxifen hay nhóm thuốc ức chế aromatase sẽ được kê toa cho bệnh nhân sau phẫu thuật.
Vai trò của gen HER2
Năm 1987, Dennis J. Slamon chứng minh có mối quan hệ giữa sự có mặt quá nhiều HER2 trên tế bào ung thư vú so với tế bào bình thường trong khoảng 1/4 số người bệnh ung thư vú. Năm 1998, trastuzumab - một thuốc điều trị nhắm vào ngay gen này đã được áp dụng cho điều trị những ung thư vú có xét nghiệm HER2 dương tính. Tên thuốc là Herceptin, tại Việt Nam bảo hiểm y tế đã đồng ý chi trả 50% cho những bệnh nhân ung thư vú điều trị tại các bệnh viện chuyên khoa ung thư.
Vai trò của gen BRCA1 và BRCA2 (viết tắt của breast cancer - ung thư vú)
Các phụ nữ mang đột biến trong gen BRCA1 hoặc BRCA2 có nguy cơ ung thư vú khoảng 50-80% trong suốt quãng đời. Các người bệnh tuổi đời càng trẻ, các thành viên trong gia đình và bà con gần bị ung thư càng nhiều thì nguy cơ đột biến gen BRCA càng cao. Các gen này có thể truyền từ cha mẹ sang con cái. Ðặc biệt, gen BRCA1 đột biến xuất hiện khoảng 7% các gia đình có nhiều người ung thư vú và trong 40% các gia đình có ung thư vú, ung thư buồng trứng. Ðột biến BRCA1 còn làm tăng 40% nguy cơ ung thư buồng trứng.
Các biện pháp làm giảm nguy cơ ung thư vú
Không có phương pháp nào phòng ngừa tuyệt đối ung thư vú. Tuy nhiên, nguy cơ mắc ung thư vú có thể giảm thiểu bằng các giải pháp sau:
Ðoạn nhũ phòng ngừa
Làm giảm 95% nguy cơ mắc ung thư vú đối với phụ nữ mang đột biến gen BRCA1 hay BRCA2. Cũng có thể cắt buồng trứng để giảm nguy cơ ung thư buồng trứng và giảm thêm nguy cơ ung thư vú do không còn nguồn sản sinh estrogen từ buồng trứng.
Phòng ngừa bằng thuốc
2 loại thuốc tamoxifen (Nolvadex) và raloxifene (Evista) đã được chứng minh làm giảm nguy cơ ung thư vú ở những phụ nữ có nguy cơ cao. 2 thuốc này khoá thụ thể estrogen làm cho tế bào không sinh sôi được. Tamoxifen được chỉ định cho phụ nữ cả trước mãn kinh và đã mãn kinh, tuy nhiên raloxifene chỉ được cho phép sử dụng trên phụ nữ đã mãn kinh.
Tập lối sống lành mạnh
Tập thể dục đều đặn, giữ cân nặng hợp lý, hạn chế uống rượu bia và hạn chế sử dụng các hóc-môn sinh dục thay thế sau mãn kinh đã được chứng minh góp phần làm giảm nguy cơ ung thư vú./.
TS Tô Minh Nghị