Người dân quê tôi đã bao đời chịu thương chịu khó. Cuộc sống gắn bó với những luống cày, cây lúa, với đồng trưa ruộng sớm. Tuổi thơ tôi cũng vậy, sau những giờ đi học về cũng tíu tít, lẽo đẽo theo cha mẹ hoặc cùng với lũ bạn ra đồng. Những buổi chiều gió mát, trên cánh đồng pha lẫn màu nâu sẫm của hoàng hôn, tôi cùng nhóm bạn trong xóm tận hưởng cảm giác khoan khoái với những cánh diều no gió.
Người dân quê tôi đã bao đời chịu thương chịu khó. Cuộc sống gắn bó với những luống cày, cây lúa, với đồng trưa ruộng sớm. Tuổi thơ tôi cũng vậy, sau những giờ đi học về cũng tíu tít, lẽo đẽo theo cha mẹ hoặc cùng với lũ bạn ra đồng. Những buổi chiều gió mát, trên cánh đồng pha lẫn màu nâu sẫm của hoàng hôn, tôi cùng nhóm bạn trong xóm tận hưởng cảm giác khoan khoái với những cánh diều no gió.
Hơn 10 năm, kể từ ngày quê tôi chuyển dịch từ trồng lúa sang nuôi tôm, mỗi khi Tết Nguyên đán xong là tôi lại tìm về những hình ảnh gắn liền với ký ức tuổi thơ, với ruộng đồng, với mùi rơm rạ.
Tháng Ba, trên đồng lộng gió, những gốc rạ vàng hoe thoang thoảng trong nắng gió pha lẫn chút hương vị của đất quê. Sau Tết, gần như nhà nhà kết thúc công việc đồng áng; là thời điểm đất đồng bắt đầu khô ráo - đây là mùa mà bọn tôi háo hức chờ đợi để tụ tập cùng nhau đi tát cá cạn, bẫy chim, đào hang chuột… mà chúng tôi thường gọi là “đi săn đồng”.
Ði học về, ăn cơm xong, cả nhóm bắt đầu cuộc hành trình. Thế là mỗi đứa một việc. Ðứa mang vá đào đất, đứa mang thùng, mang thau… tung tăng lặn lội trên đồng. Tiếng huýt sáo gọi những chú chó mực, chó phèn đi săn cùng, không khí trở nên thật nhộn nhịp, hối hả… Cả bọn bắt đầu chia nhau tìm những vũng nước đọng còn lởm chởm quanh những cái bàu, cái lung để tát cá cạn hay những chỗ nước còn đọng lại ven theo họng đìa khi đất đồng chưa khô hẳn. Ở đây những chú cá lìm kìm, lòng tong bị kẹt lại nhoi nhút làm cặn cáu cả vũng nước - là những nơi lý tưởng để chúng tôi đặt những cần bẫy cò ke để bẫy chim. Còn ở những mương phèn chưa khô nước, thì moi đất đắp hai đầu, dùng thau hoặc thùng tát nước bắt cá, ít thì để ăn, nhiều thì đem bán lấy tiền đi học.
Hấp dẫn nhất với bọn tôi vẫn là đào hang chuột. Chúng tôi phân công mỗi người một việc. Ðứa thì hì hụt đào, đứa cẩn thận tìm những hang ách bịt kín lại. Nhưng lũ chuột cũng rất ma lanh, có khi chúng khoét nhiều hang ách, nhiều ngõ ngách để phòng thân khi có bất trắc hoặc đánh lạc hướng bọn tôi và chờ sơ hở để chúng tẩu thoát. Có khi chúng tinh quái, khoét hang thật sâu trong lòng đất. Tuy nhiên, lũ chuột ma lanh đến đâu, đục khoét đến đâu cũng không thể qua được cặp mắt của bọn tôi. Chúng càng tinh quái, chúng tôi càng quyết tâm nghĩ ra nhiều cách tìm bắt cho bằng được! Có khi liên tục thay phiên nhau hì hụt đào đến mệt lã người thì mới đến tận sào huyệt của chuột và lúc này chúng mới chịu lòi đuôi. Ðây là kết quả của quá trình miệt mài với công việc, là công đoạn hấp dẫn nhất. Ðến đây, chúng tôi thường tranh nhau để nắm đuôi, thộp đầu từng “em” một lôi ra “xử tội”.
Xong việc, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình, cùng nhau thu gom dụng cụ đâu vào đấy rồi tiếp tục khám phá vùng đất mới. Ði đến đâu bọn tôi đùa giỡn rôm rả, đứa huýt sáo, đứa ca hát nghêu ngao… và hết sức đoàn kết trong công việc.
Vào những đêm trăng sáng, chúng tôi thường chơi trò trốn tìm; chơi trò “thiên đàn - địa ngục” hoặc dùng bập dừa hay một vật gì đó tượng trưng để cùng nhau chia phe đánh trận quanh những hố lúa chất cao vút trên sân. Có những đứa mải mê chơi đến khi cha mẹ đi tìm mới chịu về…
Tai chúng tôi rất thính. Luôn nghe ngóng mỗi khi trong xóm có ai tát đìa hay chụp lưới, là bọn tôi nhanh chóng truyền tin cho nhau, đến “phục kích” sẵn. Quây quần bên nhau đợi khi chủ đìa xuống bắt cá được một đoạn là cả bọn nhảy đùn đùn xuống mò cá hôi ở phía sau chủ đìa. Với đìa có nhiều cá, có khi chúng tôi mải mê bắt cá nên bị đói lã. Thường thì trước khi đi chúng tôi hay nhắc nhau đem theo muối hột để khi có đói thì tìm bứt những gốc rạ khô, bắt những chú cá lóc, cá rô… nướng trui giữa đồng ăn với bắp chuối đập giập để chống đói.
Nhiều bữa trúng mánh, trên đường di chuyển từ địa điểm này đến địa điểm khác hoặc trên đường về nhà, vô tình bọn tôi nhặt những bó lúa chủ đất gom còn sót lại. Thế là cả bọn mừng quýnh và khi về nhà bọn tôi tuốt lúa ra để đổi sương sáo bánh lọt… Có khi dừng lại hái rau đắng đất về nấu canh chua hoặc ăn với cháo cá lóc. Cứ như thế, chiến lợi phẩm thu được cùng chia đều cho nhau sau mỗi ngày đi săn.
Dường như tuổi thơ của những đứa con nít ở quê luôn gắn với đất, với bùn. Giờ đây tôi mới cảm nhận được cái hương vị của đất đồng quê hương, của mùi rơm rạ, của tuổi thơ bay bổng theo những cánh diều no gió hay những buổi vui đùa trên đồng trưa nắng cháy. Mùi vị ấy cứ thoang thoảng và quyện mãi trong hơi thở; trong nhịp sống của tôi dù tuổi thơ đã đi qua, dù tôi xa xứ.
Rơm rạ đồng quê với những cái bẫy chim, hay những cái lung, cái bàu… giờ đây không còn hiện hữu nơi tôi sống. Nhưng nó là những khoảnh khắc mà tuổi thơ mình đã đi qua rất êm đềm và đọng mãi dù cho thời gian có trôi bao xa, dù tôi bao lớn./.
Nguyễn Văn Nơi - Trường Quân sự tỉnh Cà Mau