ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 18-2-25 07:38:47
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Sao sa

Báo Cà Mau “Một vì sao sa, năng lượng của nó làm rực rỡ bầu trời. Một người ra đi, quá khứ của họ làm tim ta toả sáng”. Mỗi đoạn trong bài viết này là mỗi nén hương kính cẩn, nghiêng mình thương tiếc một con người trọn đời vì dân vì nước - là mỗi ly rượu pha cùng nước mắt đưa tiễn một người chú, người cha mà tất cả cuộc đời là tấm gương trong về đức hy sinh, khí phách hiên ngang, oanh liệt và tấm lòng độ lượng, bao dung.

“Một vì sao sa, năng lượng của nó làm rực rỡ bầu trời

Một người ra đi, quá khứ của họ làm tim ta toả sáng”

Mỗi đoạn trong bài viết này là mỗi nén hương kính cẩn, nghiêng mình thương tiếc một con người trọn đời vì dân, vì nước - là mỗi ly rượu pha cùng nước mắt đưa tiễn một người chú, người cha mà tất cả cuộc đời là tấm gương trong sáng về đức hy sinh, khí phách hiên ngang, oanh liệt và tấm lòng độ lượng, bao dung.

Tôi biết chú Ðoàn Thanh Vị (Ba Vị), nguyên Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Minh Hải từ năm 1961, khi làng rừng ở Dồ Mốp giải thể. Lúc đó chú Ba là Thường vụ Xã uỷ xã Khánh An, huyện Trần Văn Thời. Ngôi nhà lá đơn sơ, che nắng, che mưa - tổ ấm của những gia đình cán bộ từ trong làng rừng xa xôi, mới được dựng tạm bên bờ kinh Cây Bàng ven rừng tràm U Minh.

Làm sao không khỏi ngỡ ngàng khi lần đầu tiên tôi mới thấy sạp lót trên giường ngủ trong nhà chú Ba là một tấm đăng sậy sau khi xây nò đầy hàu, đầy hến người ta đã bỏ đi. Bốn phía vách phên đều không lành lặn, bếp núc, xoong nồi đều lạnh tanh. Thím Ba một mình tần tảo đi cấy, đi cào nuôi 6-7 người con.

Ông Đoàn Thanh Vị phát biểu tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Minh Hải lần thứ V, nhiệm kỳ 1977-1980, tổ chức vào cuối tháng 3, đầu tháng 4/1977. Ảnh: Hoài Hãn (chụp từ tư liệu qua màn hình ti-vi)

Có tận mắt chứng kiến mới hiểu được cái nghèo, có hiểu được cái nghèo mới biết được tấm lòng của người nghèo đối với cách mạng. Nhà chú Ba nghèo lắm, nhưng chiến tích và tấm lòng thì không hề nghèo.

Xã Khánh An thời điểm ấy là chiếc nôi cung cấp nhiều cán bộ cho huyện Trần Văn Thời. Chỉ trong thời gian vài ba năm, các đồng chí bí thư xã như Ba Biền, Chín Cư, Bảy Thanh, Hai Phối đều được rút về trên. Chú Ba Vị được đề bạt bí thư xã không lâu cũng được điều động lên làm Huyện đội phó huyện Trần Văn Thời.

Ngày 20/5/1964, sau nhiều ngày bị các lực lượng vũ trang của ta bao vây uy hiếp, bọn địch tại Ðặc khu Khai Hoang, xã Khánh An kêu cứu khẩn cấp. Bọn Vùng 4 Chiến thuật cho pháo binh, không quân và bộ binh đến giải toả. Hai bên đánh xáp lá cà mấy tiếng đồng hồ, rất nhiều địch chết và bị thương, nhưng bên ta cũng tổn thất nặng nề: 86 chiến sĩ hy sinh, một số bị thương. Ðịch gom xác anh em thành nhiều đống rồi canh giữ không cho ta lấy thây. Ðến ngày thứ 8, gia đình và người thân biết chồng con, anh em còn phơi mình ngoài chiến địa, có lòng dạ nào ngồi đứng cho yên.

Trong khi mọi ý kiến đề xuất, mọi kế hoạch tiến hành thu gom thi thể đồng đội đều bế tắc, chú Ba Vị bàn với các đồng chí lãnh đạo rồi tổ chức một cuộc họp đảng viên, bên trên treo lá cờ Ðảng. Là người chủ trì cuộc họp, sau khi trình bày tình hình đang diễn biến, chú Ba nói: “Bất kỳ giá nào chúng ta cũng phải lấy cho được xác đồng đội đem về an táng chu đáo, nhưng đây là việc làm hết sức nguy hiểm, đòi hỏi phải chấp nhận hy sinh! Ai là người tình nguyện cùng tôi đi lấy thây các chiến sĩ hãy đưa tay lên!”.

Một cánh tay rồi nhiều cánh tay và gần như đồng loạt mọi người đều giơ tay. Thân thể anh em lúc này đã thối rữa, địch không canh gác nổi, chỉ sau mấy hôm, ta đã hoàn tất việc tìm kiếm đầy đủ và chôn cất liệt sĩ đàng hoàng. Ðơn vị Ðịa phương quân lúc đó hy sinh nhiều nhất, nhưng không bao lâu được bổ sung đầy đủ và chiến đấu ngoan cường. Cho đến bây giờ vẫn có người nói “nếu lúc đó không có ông Ba Vị không biết sẽ ra sao, vì ông đã biến thất bại thành thắng lợi”. Phải chăng do tấm lòng của một người lãnh đạo không nỡ bỏ anh em mà đau thương như được băng bó và lành lặn?

Ðồng chí Nguyễn Minh Phúc, nguyên Khu Ðoàn uỷ viên, Hiệu trưởng Trường Nguyễn Chí Thanh, từng nhắc việc chú Ba lúc về làm Chính trị viên Công binh xưởng tỉnh Cà Mau (Xưởng Quân giới Cà Mau) giai đoạn 1964-1967. Chú cho sưu tầm, nghiên cứu các loại vũ khí của ta từ thời chống Pháp và đưa người sang Kiên Giang mua máy tiện cũng như mời cán bộ quân giới của trên về tập huấn để tiếp tục chế tạo lăng-xà-bom bắn cháy tàu sắt, đặc biệt là cải tiến bê-ta thành mìn định hướng mặt lõm, phá huỷ hàng rào dây thép gai của địch. Hàng trăm tàu sắt bị bắn chìm, cùng nhiều đồn bót địch bị tiêu diệt thời điểm đó có sự góp phần không nhỏ của Công binh xưởng Cà Mau do chú Ba phụ trách.

Tháng 11/1968, chú Ba được điều về làm Chính trị viên phó Tiểu đoàn 410. Khi đơn vị này chuyển lên tuyến đường 1C tại Kiên Giang, Khu uỷ chỉ định chú ở lại làm Bí thư Huyện uỷ Thới Bình. Lúc này bọn Sư đoàn 21 của địch liên tục ruồng, càn rừng U Minh Thượng - Hạ, đồn bót địch khắp nơi. Xét thấy tiến công quân sự khó thắng nổi, chú Ba chủ trương đẩy mạnh mũi binh vận “mỗi đảng viên phải xây dựng cho được một cơ sở trong lòng địch”. Thời điểm cao nhất, huyện Thới Bình có đến 150 cơ sở với tổng số 35 đồn bót trong huyện. Chiến dịch Xuân - Hè năm 1972, hệ thống đồn bót địch liên tục vỡ tan từng mảng lớn, Thới Bình là huyện dẫn đầu đánh thắng bình định vang dội sau Tết Mậu Thân của tỉnh Cà Mau.

Tháng 9/1973, khi Khu uỷ thành lập tỉnh Bạc Liêu, chú Ba là Thường vụ Tỉnh uỷ, Chính trị viên Tỉnh đội Bạc Liêu, trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn 1 từ Cà Mau đưa lên. Do địa bàn xa lạ, cả 3 trận đầu đều không thắng lợi. Giải quyết thế nào đây? Một cuộc họp toàn quân tìm nguyên nhân, rồi tại lễ tình nguyện đánh thắng trận đầu, chú là người xung phong ra trận, trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Do ý chí quyết tử giành thắng lợi, dù là cán bộ lãnh đạo, chú vẫn cùng chiến sĩ ra trận diệt địch giành thắng lợi…   

Tháng 4/1974, chú được Khu uỷ chỉ định làm Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu, lúc đó chủ trương của Khu uỷ là “Các địa phương phải tự lực giải phóng, không chờ sự chi viện của trên”. Nhận định binh vận là mũi đột phá cuối cùng, chú Ba bố trí cán bộ đến gặp Ðại tá, Tỉnh trưởng Bạc Liêu Nguyễn Ngọc Ðiệp thuyết phục hắn.

Sáng 30/4/1975, Ðại tá Ðiệp chấp nhận đầu hàng, trong khi các tỉnh khác ở Tây Nam Bộ chưa nơi nào địch chịu buông súng. Sự kiện này làm cho Bạc Liêu ghi thêm chiến tích phi thường một lần nữa trong lịch sử chiến thắng của mình, đó là cả hai lần giành chính quyền về tay Nhân dân (năm 1945 và năm 1975) đều không đổ một giọt máu.

Có người viết thơ ca ngợi chú Ba:

“Bản anh hùng ca còn mãi tiếng vang

Ðoàn Thanh Vị đất Bạc Liêu bất tử”

Những ngày đầu giải phóng, để giúp cả nước vượt qua “cửa ải” lương thực, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Minh Hải chủ trương mua gỗ miền Ðông và xi-măng, sắt thép, phân bón đem về đổi lúa với nông dân, tạo nguồn lương thực, thực phẩm dồi dào cho cả nước, rồi tiếp theo tổ chức hợp tác với Lào đem gỗ về thực hiện chương trình “ngói hoá nông thôn”. Việc làm đầy sáng tạo này được ngợi ca chẳng khác một chiến công to lớn trong thời bao cấp và chú Ba Vị cũng là người chịu trách nhiệm sau cùng đối với chủ trương nhiều biến động này.

Quê hương Trần Văn Thời, U Minh bị chia cắt với Cà Mau bởi sông Trẹm và sông Ông Ðốc, muốn lưu thông nhanh chóng phải cần một cây cầu nơi Tắc Thủ. Chú Ba chỉ đạo huyện U Minh biến tràm đến vụ khai thác thành vật tư, tức là “cái không thể thành có thể”. Bây giờ, mỗi lần đi qua 2 cây cầu Tắc Thủ và Khánh An, có ai quên được người hiến kế? Nếu như trước đây đi tàu đò từ Cà Mau đến Khánh Hội phải mất cả ngày trời, bây giờ đi xe buýt chỉ còn vài tiếng đồng hồ. Chú Ba còn đề xuất với U Minh “hãy biến ngã ba Biện Nhị - Cái Tàu thành ngã tư, mở rộng thị trấn U Minh về hướng Ðông Nam” tạo nên phố xá đông đảo, sầm uất hơn. Ðối với chú, chợ là thước đo, là “bà đỡ” cho sự phát triển kinh tế một địa phương, phải quy hoạch sao cho chợ rộng lớn càng nhanh càng tốt. 

Trong chiến tranh, chú Ba chịu đựng biết bao đau thương, mất mát. Từ tháng 6/1971 đến tháng 5/1972, không đầy 1 năm, thân sinh của chú bị mìn nổ chết, rồi 2  con trai và 1 con rể hy sinh. Thời gian đó chú đang chỉ đạo đánh địch tại Thới Bình, không một lần về thăm nhà được. Ngồi nghe chú kể, thật khó tránh khỏi bồi hồi: “Một lần về đến cơ quan, thấy chị Tư Giang, Phó Bí thư Huyện uỷ Thới Bình, cùng một số anh, chị em dọn mâm cơm, nói là chuẩn bị để tôi “cúng cơm ông già”, tôi mới sực nhớ hôm đó là ngày giỗ của ba tôi!”. Quên hết cái riêng để lo cho cái chung là lẽ sống của cán bộ, chiến sĩ trong thời kháng chiến.

Một con người biết suy cổ, luận kim và từng ứng dụng mưu lược của người xưa trong chiến đấu chống quân xâm lược nên lúc nào chú cũng có thể cười trong những trường hợp không vui. Không theo đạo Phật nhưng chú hiểu ý nghĩa của từ, bi, hỷ, xả - tha thứ cho tất cả, đó là tư tưởng của những nhà hiền triết.

Chú ra đi thật sự thanh thản vì cuộc đời không quên chú như ngày còn sống chú không quên cuộc đời. Chú đã dành tất cả cho đại cuộc, còn bây giờ biết bao người dành cho chú tất cả niềm yêu thương, kính trọng. Dù không phải là nhà điêu khắc nhưng chú đã ghi tạc vào lịch sử quê hương những đường nét hào hùng. Những đường nét không bao giờ mờ phai, hôm nay và mãi mãi!

Quá khứ là đòn bẩy của hiện tại và tương lai. “Ðòn bẩy” của chú làm nhiều thế hệ nối tiếp noi theo từ lời ăn, nết ở, từ khí phách trước quân thù và lòng bao dung với đồng đội, độ lượng với anh em. Ðó là một quá khứ làm bừng sáng mọi trái tim.

Quê hương U Minh đón chú về cõi vĩnh hằng nơi đất mẹ như đón tiếp một bản anh hùng ca đời đời vang vọng!./.

11/7/2015

Trường Sơn Ðông

 

Thăm địa chỉ đỏ

Di tích Hồng Anh Thư Quán (số 43, đường Phạm Văn Ký, Phường 2, TP Cà Mau) là một trong những di tích lịch sử hiếm hoi ghi dấu chặng đường cách mạng của người Cà Mau trước năm 1930. Hồng Anh Thư Quán được công nhận Di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia ngày 4/8/1992.

Tri ân người mở cõi

Ðầu xuân năm nay tôi được dự lễ khánh thành khu mộ thân tộc ông bà Phạm Hữu Liêm - Lê Thị Liễu, tại ấp Bàu Vũng, xã Tân Hưng, huyện Cái Nước. Chung quanh khu nghĩa mộ có mấy công trình phụ nhưng ý nghĩa đáng để mọi người suy ngẫm. Ðó là hồ sen, tuy diện tích không lớn nhưng ông Liêm giải thích sen là “Quốc hoa” của dân tộc Việt Nam, “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Phía tay phải là một hồ khác để nuôi cá các loại, chim le le và vịt trời. Phía sau công trình là một bờ cây đước xanh rờn, cao lớn.

Thêm hiện vật quý thời chống Pháp

Vừa qua, trong chuyến công tác tại TP Hồ Chí Minh, Bảo tàng tỉnh Cà Mau vinh dự được tiếp nhận một số hiện vật vô cùng quý giá, gồm 47 hình ảnh và 11 hiện vật liên quan đến 2 nhân vật lịch sử nổi tiếng của tỉnh Cà Mau, là Trần Văn Đại (Bí thư Tỉnh uỷ 1939-1940) và Trần Văn Thời (Bí thư Tỉnh uỷ 1940-1941). Toàn bộ số hiện vật này được ông Trần Hoà Bình, con trai của ông Trần Văn Đại (Tám Đại) hiến tặng.

Ba ông già tuổi tỵ

Ðó là ba ông già cùng làm ở Xưởng Quân giới (XQG) Cà Mau thời kháng chiến chống Mỹ. Nói về XQG này thì những người cùng thời, tham gia kháng chiến ở Cà Mau, hầu như ai cũng biết. Họ hay gọi là xưởng ông Ba Thợ Rèn (thường gọi là Ba Lò Rèn), vì ông Ba Thợ Rèn (Nguyễn Trung Thành) là người chịu trách nhiệm lập xưởng (đầu năm 1960) và rất nổi tiếng với việc sản xuất đạn pháo lăn-xà-bom, được tuyên dương anh hùng ngay đợt đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ (năm 1965); xưởng cũng hai lần được tuyên dương anh hùng.

Đi B

Nhà Bác sĩ Nguyễn Văn Thể nằm trên đường Hoàng Diệu, Phường 2, TP Cà Mau. Gian trước dành một khoảng khiêm tốn làm phòng mạch, thỉnh thoảng có vài bệnh nhân quen tới khám. Kế trong là bàn tiếp khách. Khắp phòng treo khá nhiều tranh ảnh nghệ thuật. Một cây đàn trên giá. Khi không có bệnh nhân thì ông thường ôm đàn, phong cách rất nghệ sĩ, và ông cũng thích giao du với giới văn nghệ sĩ Cà Mau.

Những lá thư còn lại

Tự nhận mình có viết thư, biết cảm nhận cái nghĩa, cái tình qua những bức thư ấy, một thời là công cụ giao lưu tình cảm gia đình, đồng đội, bạn bè, có khi là cánh én báo hiệu tình yêu nảy nở. Còn vì một tiếc nuối khác, chiến tranh đã kết thúc 50 năm, sứ mệnh của những lá thư đó cũng đã chấm dứt vai trò cầu nối của mình, những lá thư còn được giữ lại như một kỷ vật quý báu, nếu được xếp ở một góc nhỏ trong bảo tàng, chỉ những chữ đề “Con gái thương yêu của mẹ"; "Anh Chín kính mến"; "Em thân yêu...” người xem dễ chạm vào xúc động, bâng khuâng.

Ăn Tết ở làng rừng

Tôi đang mở trường tư thục, dạy trên 150 học trò. Bí thư Chi bộ xã Lương Hoà là đồng chí Tư Tài, đem nghị quyết Tỉnh uỷ Bến Tre rút tôi về Ban Văn nghệ tỉnh. Chưa kịp thu xếp đi, thì má tôi (bà Hồ Thị Luỹ) ở Cà Mau qua tới. Má tôi chẻ trái chuối xiêm ra, đưa cho tôi lá thư ngắn của anh Hai Thống (Trần Hữu Vịnh, Bí thư xã Khánh Bình Tây, sau này là Phó bí thư Tỉnh uỷ Minh Hải) kèm theo mấy lời chú Chín Thép, Uỷ viên Thường vụ xã (viết chung ý là “Đám giỗ làm lớn cúng ông bà, chú phải về quê nhà để cúng ông bà báo hiếu”).

Về địa chỉ đỏ...

Những ngày giáp Tết, lực lượng đoàn viên, thanh niên Công an tỉnh Cà Mau có chuyến về nguồn thăm các di tích lịch sử tiêu biểu

Miền nhớ thiêng liêng

Chuỗi hoạt động Kỷ niệm 70 năm Sự kiện tập kết ra Bắc diễn ra trang trọng, ý nghĩa trên đất Cà Mau. Ngược miền ký ức, những cán bộ, chiến sĩ, học sinh, đồng bào miền Nam như được sống lại giai đoạn thiêng liêng của cuộc chuyển quân lịch sử. Họ gặp lại nhau, cảm xúc dâng trào, bao câu chuyện về những ngày chiến đấu, lao động, học tập nối mạch ùa về...

Ðại tá từ du kích

Trong các bạn bè, đồng đội cùng hàm, trên dưới tuổi tám mươi, Ðại tá Trần Công Bình (Út Bình) có lẽ là người đậm chất từ du kích, tên ông gắn liền với du kích Thạnh Phú một thời lẫy lừng chốt chặn phía Nam tỉnh lỵ An Xuyên, bảo vệ vùng giải phóng Nhà Phấn, Rạch Mũi trong tầm đại bác của địch.