ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 7-6-25 17:49:04
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Sao sa

Báo Cà Mau “Một vì sao sa, năng lượng của nó làm rực rỡ bầu trời. Một người ra đi, quá khứ của họ làm tim ta toả sáng”. Mỗi đoạn trong bài viết này là mỗi nén hương kính cẩn, nghiêng mình thương tiếc một con người trọn đời vì dân vì nước - là mỗi ly rượu pha cùng nước mắt đưa tiễn một người chú, người cha mà tất cả cuộc đời là tấm gương trong về đức hy sinh, khí phách hiên ngang, oanh liệt và tấm lòng độ lượng, bao dung.

“Một vì sao sa, năng lượng của nó làm rực rỡ bầu trời

Một người ra đi, quá khứ của họ làm tim ta toả sáng”

Mỗi đoạn trong bài viết này là mỗi nén hương kính cẩn, nghiêng mình thương tiếc một con người trọn đời vì dân, vì nước - là mỗi ly rượu pha cùng nước mắt đưa tiễn một người chú, người cha mà tất cả cuộc đời là tấm gương trong sáng về đức hy sinh, khí phách hiên ngang, oanh liệt và tấm lòng độ lượng, bao dung.

Tôi biết chú Ðoàn Thanh Vị (Ba Vị), nguyên Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Minh Hải từ năm 1961, khi làng rừng ở Dồ Mốp giải thể. Lúc đó chú Ba là Thường vụ Xã uỷ xã Khánh An, huyện Trần Văn Thời. Ngôi nhà lá đơn sơ, che nắng, che mưa - tổ ấm của những gia đình cán bộ từ trong làng rừng xa xôi, mới được dựng tạm bên bờ kinh Cây Bàng ven rừng tràm U Minh.

Làm sao không khỏi ngỡ ngàng khi lần đầu tiên tôi mới thấy sạp lót trên giường ngủ trong nhà chú Ba là một tấm đăng sậy sau khi xây nò đầy hàu, đầy hến người ta đã bỏ đi. Bốn phía vách phên đều không lành lặn, bếp núc, xoong nồi đều lạnh tanh. Thím Ba một mình tần tảo đi cấy, đi cào nuôi 6-7 người con.

Ông Đoàn Thanh Vị phát biểu tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Minh Hải lần thứ V, nhiệm kỳ 1977-1980, tổ chức vào cuối tháng 3, đầu tháng 4/1977. Ảnh: Hoài Hãn (chụp từ tư liệu qua màn hình ti-vi)

Có tận mắt chứng kiến mới hiểu được cái nghèo, có hiểu được cái nghèo mới biết được tấm lòng của người nghèo đối với cách mạng. Nhà chú Ba nghèo lắm, nhưng chiến tích và tấm lòng thì không hề nghèo.

Xã Khánh An thời điểm ấy là chiếc nôi cung cấp nhiều cán bộ cho huyện Trần Văn Thời. Chỉ trong thời gian vài ba năm, các đồng chí bí thư xã như Ba Biền, Chín Cư, Bảy Thanh, Hai Phối đều được rút về trên. Chú Ba Vị được đề bạt bí thư xã không lâu cũng được điều động lên làm Huyện đội phó huyện Trần Văn Thời.

Ngày 20/5/1964, sau nhiều ngày bị các lực lượng vũ trang của ta bao vây uy hiếp, bọn địch tại Ðặc khu Khai Hoang, xã Khánh An kêu cứu khẩn cấp. Bọn Vùng 4 Chiến thuật cho pháo binh, không quân và bộ binh đến giải toả. Hai bên đánh xáp lá cà mấy tiếng đồng hồ, rất nhiều địch chết và bị thương, nhưng bên ta cũng tổn thất nặng nề: 86 chiến sĩ hy sinh, một số bị thương. Ðịch gom xác anh em thành nhiều đống rồi canh giữ không cho ta lấy thây. Ðến ngày thứ 8, gia đình và người thân biết chồng con, anh em còn phơi mình ngoài chiến địa, có lòng dạ nào ngồi đứng cho yên.

Trong khi mọi ý kiến đề xuất, mọi kế hoạch tiến hành thu gom thi thể đồng đội đều bế tắc, chú Ba Vị bàn với các đồng chí lãnh đạo rồi tổ chức một cuộc họp đảng viên, bên trên treo lá cờ Ðảng. Là người chủ trì cuộc họp, sau khi trình bày tình hình đang diễn biến, chú Ba nói: “Bất kỳ giá nào chúng ta cũng phải lấy cho được xác đồng đội đem về an táng chu đáo, nhưng đây là việc làm hết sức nguy hiểm, đòi hỏi phải chấp nhận hy sinh! Ai là người tình nguyện cùng tôi đi lấy thây các chiến sĩ hãy đưa tay lên!”.

Một cánh tay rồi nhiều cánh tay và gần như đồng loạt mọi người đều giơ tay. Thân thể anh em lúc này đã thối rữa, địch không canh gác nổi, chỉ sau mấy hôm, ta đã hoàn tất việc tìm kiếm đầy đủ và chôn cất liệt sĩ đàng hoàng. Ðơn vị Ðịa phương quân lúc đó hy sinh nhiều nhất, nhưng không bao lâu được bổ sung đầy đủ và chiến đấu ngoan cường. Cho đến bây giờ vẫn có người nói “nếu lúc đó không có ông Ba Vị không biết sẽ ra sao, vì ông đã biến thất bại thành thắng lợi”. Phải chăng do tấm lòng của một người lãnh đạo không nỡ bỏ anh em mà đau thương như được băng bó và lành lặn?

Ðồng chí Nguyễn Minh Phúc, nguyên Khu Ðoàn uỷ viên, Hiệu trưởng Trường Nguyễn Chí Thanh, từng nhắc việc chú Ba lúc về làm Chính trị viên Công binh xưởng tỉnh Cà Mau (Xưởng Quân giới Cà Mau) giai đoạn 1964-1967. Chú cho sưu tầm, nghiên cứu các loại vũ khí của ta từ thời chống Pháp và đưa người sang Kiên Giang mua máy tiện cũng như mời cán bộ quân giới của trên về tập huấn để tiếp tục chế tạo lăng-xà-bom bắn cháy tàu sắt, đặc biệt là cải tiến bê-ta thành mìn định hướng mặt lõm, phá huỷ hàng rào dây thép gai của địch. Hàng trăm tàu sắt bị bắn chìm, cùng nhiều đồn bót địch bị tiêu diệt thời điểm đó có sự góp phần không nhỏ của Công binh xưởng Cà Mau do chú Ba phụ trách.

Tháng 11/1968, chú Ba được điều về làm Chính trị viên phó Tiểu đoàn 410. Khi đơn vị này chuyển lên tuyến đường 1C tại Kiên Giang, Khu uỷ chỉ định chú ở lại làm Bí thư Huyện uỷ Thới Bình. Lúc này bọn Sư đoàn 21 của địch liên tục ruồng, càn rừng U Minh Thượng - Hạ, đồn bót địch khắp nơi. Xét thấy tiến công quân sự khó thắng nổi, chú Ba chủ trương đẩy mạnh mũi binh vận “mỗi đảng viên phải xây dựng cho được một cơ sở trong lòng địch”. Thời điểm cao nhất, huyện Thới Bình có đến 150 cơ sở với tổng số 35 đồn bót trong huyện. Chiến dịch Xuân - Hè năm 1972, hệ thống đồn bót địch liên tục vỡ tan từng mảng lớn, Thới Bình là huyện dẫn đầu đánh thắng bình định vang dội sau Tết Mậu Thân của tỉnh Cà Mau.

Tháng 9/1973, khi Khu uỷ thành lập tỉnh Bạc Liêu, chú Ba là Thường vụ Tỉnh uỷ, Chính trị viên Tỉnh đội Bạc Liêu, trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn 1 từ Cà Mau đưa lên. Do địa bàn xa lạ, cả 3 trận đầu đều không thắng lợi. Giải quyết thế nào đây? Một cuộc họp toàn quân tìm nguyên nhân, rồi tại lễ tình nguyện đánh thắng trận đầu, chú là người xung phong ra trận, trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Do ý chí quyết tử giành thắng lợi, dù là cán bộ lãnh đạo, chú vẫn cùng chiến sĩ ra trận diệt địch giành thắng lợi…   

Tháng 4/1974, chú được Khu uỷ chỉ định làm Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu, lúc đó chủ trương của Khu uỷ là “Các địa phương phải tự lực giải phóng, không chờ sự chi viện của trên”. Nhận định binh vận là mũi đột phá cuối cùng, chú Ba bố trí cán bộ đến gặp Ðại tá, Tỉnh trưởng Bạc Liêu Nguyễn Ngọc Ðiệp thuyết phục hắn.

Sáng 30/4/1975, Ðại tá Ðiệp chấp nhận đầu hàng, trong khi các tỉnh khác ở Tây Nam Bộ chưa nơi nào địch chịu buông súng. Sự kiện này làm cho Bạc Liêu ghi thêm chiến tích phi thường một lần nữa trong lịch sử chiến thắng của mình, đó là cả hai lần giành chính quyền về tay Nhân dân (năm 1945 và năm 1975) đều không đổ một giọt máu.

Có người viết thơ ca ngợi chú Ba:

“Bản anh hùng ca còn mãi tiếng vang

Ðoàn Thanh Vị đất Bạc Liêu bất tử”

Những ngày đầu giải phóng, để giúp cả nước vượt qua “cửa ải” lương thực, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Minh Hải chủ trương mua gỗ miền Ðông và xi-măng, sắt thép, phân bón đem về đổi lúa với nông dân, tạo nguồn lương thực, thực phẩm dồi dào cho cả nước, rồi tiếp theo tổ chức hợp tác với Lào đem gỗ về thực hiện chương trình “ngói hoá nông thôn”. Việc làm đầy sáng tạo này được ngợi ca chẳng khác một chiến công to lớn trong thời bao cấp và chú Ba Vị cũng là người chịu trách nhiệm sau cùng đối với chủ trương nhiều biến động này.

Quê hương Trần Văn Thời, U Minh bị chia cắt với Cà Mau bởi sông Trẹm và sông Ông Ðốc, muốn lưu thông nhanh chóng phải cần một cây cầu nơi Tắc Thủ. Chú Ba chỉ đạo huyện U Minh biến tràm đến vụ khai thác thành vật tư, tức là “cái không thể thành có thể”. Bây giờ, mỗi lần đi qua 2 cây cầu Tắc Thủ và Khánh An, có ai quên được người hiến kế? Nếu như trước đây đi tàu đò từ Cà Mau đến Khánh Hội phải mất cả ngày trời, bây giờ đi xe buýt chỉ còn vài tiếng đồng hồ. Chú Ba còn đề xuất với U Minh “hãy biến ngã ba Biện Nhị - Cái Tàu thành ngã tư, mở rộng thị trấn U Minh về hướng Ðông Nam” tạo nên phố xá đông đảo, sầm uất hơn. Ðối với chú, chợ là thước đo, là “bà đỡ” cho sự phát triển kinh tế một địa phương, phải quy hoạch sao cho chợ rộng lớn càng nhanh càng tốt. 

Trong chiến tranh, chú Ba chịu đựng biết bao đau thương, mất mát. Từ tháng 6/1971 đến tháng 5/1972, không đầy 1 năm, thân sinh của chú bị mìn nổ chết, rồi 2  con trai và 1 con rể hy sinh. Thời gian đó chú đang chỉ đạo đánh địch tại Thới Bình, không một lần về thăm nhà được. Ngồi nghe chú kể, thật khó tránh khỏi bồi hồi: “Một lần về đến cơ quan, thấy chị Tư Giang, Phó Bí thư Huyện uỷ Thới Bình, cùng một số anh, chị em dọn mâm cơm, nói là chuẩn bị để tôi “cúng cơm ông già”, tôi mới sực nhớ hôm đó là ngày giỗ của ba tôi!”. Quên hết cái riêng để lo cho cái chung là lẽ sống của cán bộ, chiến sĩ trong thời kháng chiến.

Một con người biết suy cổ, luận kim và từng ứng dụng mưu lược của người xưa trong chiến đấu chống quân xâm lược nên lúc nào chú cũng có thể cười trong những trường hợp không vui. Không theo đạo Phật nhưng chú hiểu ý nghĩa của từ, bi, hỷ, xả - tha thứ cho tất cả, đó là tư tưởng của những nhà hiền triết.

Chú ra đi thật sự thanh thản vì cuộc đời không quên chú như ngày còn sống chú không quên cuộc đời. Chú đã dành tất cả cho đại cuộc, còn bây giờ biết bao người dành cho chú tất cả niềm yêu thương, kính trọng. Dù không phải là nhà điêu khắc nhưng chú đã ghi tạc vào lịch sử quê hương những đường nét hào hùng. Những đường nét không bao giờ mờ phai, hôm nay và mãi mãi!

Quá khứ là đòn bẩy của hiện tại và tương lai. “Ðòn bẩy” của chú làm nhiều thế hệ nối tiếp noi theo từ lời ăn, nết ở, từ khí phách trước quân thù và lòng bao dung với đồng đội, độ lượng với anh em. Ðó là một quá khứ làm bừng sáng mọi trái tim.

Quê hương U Minh đón chú về cõi vĩnh hằng nơi đất mẹ như đón tiếp một bản anh hùng ca đời đời vang vọng!./.

11/7/2015

Trường Sơn Ðông

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.