ĐT: 0939.923988
Thứ tư, 3-7-24 16:17:03
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Thời xuồng chèo khó quên

Báo Cà Mau (CMO) Tôi vốn thích nghi phương tiện xuồng chèo vùng sông nước Cà Mau hơn chục năm. Thế mà, đến trưa 1/5/1975, sau chuyến cùng hành quân trên sông Tân Ðức, Rạch Muỗi, Rạch Rập từ phía Nam tiến ra tiếp quản thị xã Cà Mau giải phóng, tôi “đành thất nghiệp”, ngưng hẳn việc đi lại bằng xuồng chèo...

Bình yên sông nước Cà Mau. Ảnh: HUỲNH LÂM

Thời kháng chiến, những năm công tác ở huyện, với chiếc xuồng be tám và cặp chèo tràm, tôi đã đi công tác một mình và đi với các anh gần giáp địa bàn. Ðáng nhớ, nhiều chuyến xuyên rừng tràm U Minh Hạ về xã Khánh Lâm, đến căn cứ làng rừng Khánh An và hơn một năm sau, tôi ngồi xuồng giao liên tỉnh (Hai Hoả) về tới vùng rẫy thơm Biển Bạch (Thới Bình).

Kỷ niệm Tết Mậu Thân 1968, tôi được phân công chèo chiếc xuồng be tám chở 3 khạp đựng tài liệu, di chuyển từ kinh Ðòn Dong lên tới nhà ông Tư Ðồ, gần cản Mười Châu, bờ Bắc Kinh Cũ. Tôi đi một mình và đi ngay trong đêm 30, trước giờ giao thừa... Nhà thơ Thanh Giang (Văn nghệ “R”) có lần nhắc: “Mậu Thân 1968 là đỉnh cao của sự chấp hành mệnh lệnh…”, bằng ý chí “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”… Thay vì đi đường thẳng - kinh Chống Mỹ, gần hơn, anh Tám Cẩn phân công, lại còn gợi ý tôi phải đi một vòng xa lắc... Từ kinh Ðòn Dong vào Kinh Ngang, thẳng lên, qua ngang Vườn Giữa, ra Cơi Ba chèo lên, tới ngã tư Chín Rỗ, rẽ phải chèo thẳng ra Kinh Cũ. Hồi ấy, tôi là chàng trai 18 tuổi, vừa mấy tháng xa nhà, thoát ly theo kháng chiến, còn non choẹt...

Mùa hè 1972, tôi được phân công đi học Trường Thông tấn Báo chí miền Tây Nam Bộ ở rừng đước Năm Căn. Chuyến ra khỏi địa bàn huyện lần đầu này, tôi ngồi xuồng của anh em giao liên huyện và tỉnh, vượt Sông Ðốc, qua lộ xe, qua sông Bảy Háp tới Trường Ninh Bình ở Bào Dừa. Từ đây, lúc chiều tôi được bố trí xuống ngồi xuồng của anh Hai Tần và chị Hồng Sự ở Ban Tuyên huấn huyện Cái Nước, nhập cùng đoàn học viên hành quân bằng xuồng chèo về căn cứ trường lớp ở rừng đước Năm Căn. Chị Hồng Sự (1950-2011), người con gái Rau Dừa, nét đẹp, mặc áo trắng, ngồi trước mũi xuồng cầm cây dầm bơi… Giây phút mới quen, tôi gọi bằng chị, Hồng Sự lên tiếng:

- Chị cái gì mà chị!

Nhưng khi về già, có lần gặp lại, Hồng Sự gọi tôi bằng tên, vì cả hai đứa tôi cùng tuổi mà.

Năm 1973, khi được rút về tỉnh làm phóng viên tập sự báo Cà Mau, hoạt động địa bàn rộng lớn và cũng chiếc xuồng be tám, cặp chèo đước, tôi đã dần quen nhiều chuyến công tác. Ban đầu đi với em Châu Thanh Hải (khắc gỗ), sau đó tôi được phân công đi một mình, từ Giáp Nước qua Cống Ðá lộ xe, qua sông Bảy Háp, xuống tận kinh Ông Ðơn... Và những chuyến công tác khá xa, như đi với Mười Lai từ Giáp Nước sang Tân Thuận, đến căn cứ Ðồng Giác, huyện Tư Kháng cũ, gởi xuồng lại bến, đi theo anh giao liên huyện Giá Rai lần dây hàng cột đáy vượt sông Gành Hào, lội bộ trong cánh rừng và vượt kinh xáng Hộ Phòng về Giá Rai, Long Ðiền Tây vào mùa lúa cấy năm 1973...

Thời chiến, nhiều anh “cưng chiếc xuồng như cưng vợ…”. Nhà báo Nguyễn Mai viết: “Trong những lúc đi công tác, tôi yêu nhất một người, đó không phải là con gái mà là một… chiếc xuồng! Người tôi yêu thứ hai - cũng không phải là con gái, mà là một người bạn trai tên là Nguyễn Kiên Ðịnh (6/4/1964)”. Trong phim tài liệu Nhà báo Nguyễn Mai (1998), anh Nguyễn Kiên Ðịnh nhớ, kể lại: “Có lần đi công tác, thấy chiếc xuồng của dân bị đội cừ lúc nước ròng. Anh em đều đứng nhìn. Chỉ có Nhà báo Nguyễn Mai - Phan Trường Thọ, xăn quần lội xuống bùn, dỡ chiếc xuồng lên, bỏ xuống khỏi cây cừ…”.

Kỷ niệm thuở đi xuồng chèo 2 người qua vùng Sông Ðốc thời chiến, khi chiều mưa lắc rắc, gió tê buốt thịt da, phải vượt qua cánh đồng “chó ngáp”..., anh Nguyễn Kiên Ðịnh làm bài thơ “Gửi cô gái vùng ven” (1996). Bài thơ có đoạn như sau:

Ðường xa có những lúc

Ta phải đổi phiên chèo

Vô tình chạm vào nhau

Trên xuồng con thế đó!

Năm 1974, tôi với Thanh Sơn đi chung chuyến công tác về huyện Ngọc Hiển (Tư Kháng). Thanh Sơn tên thật Nguyễn Thanh Tao, học sinh ở thành, biết chút ít tiếng Anh, trở về quê vùng giải phóng xã Tân Thuận, được rút thẳng lên Tiểu ban Thông tấn Báo chí Cà Mau... Anh em ở Ðầm Dơi còn nhắc, với tên cúng cơm như vậy nên Sơn viết thư về thăm nhà, câu cuối thường ghi “Con của ba má” là “Tao”. Chuyến đi năm ấy, tôi đứng chèo suốt tuyến đường, chuyến về ra Sông Ðầm lúc ròng sát và nước lớn bắt đầu chảy vào... Tôi gọi Thanh Sơn đổi chèo cho tôi nghỉ tay giây lát. Thanh Sơn nước da ngăm, ít khi cởi mở, nghe có người gọi “Sơn xì ke”, Thanh Sơn chỉ cười... Thanh Sơn đứng chèo, lọng cọng. Chèo được vài trăm mét, Sơn nhờ tôi giúp mở túi bòng lấy ra giùm chiếc khăn rằn. Cứ ngỡ che nắng, đâu ngờ Sơn quấn chiếc khăn vào guốc chèo để cầm cho không bị phồng tay... Chao ôi! Lần duy nhất tôi mới thấy một người chèo xuồng có trình độ “nghiệp dư” như chàng Thanh Sơn, nếu đi một mình sẽ rối tung là cái chắc!

Tôi nhớ một kỷ niệm tuyệt đẹp thời chưa biết yêu. Sau hơn năm được rút lên làm lính tỉnh, tôi có chuyến trở về cơ quan cũ ở huyện nhà. Anh Ba viết lá thư thăm người em vợ đang công tác ở cơ quan X, bảo tôi tìm chuyển tận tay thành chuyện tình cờ mà tôi quen biết Cẩm Vui… Và, khoảng gần 5 tháng chuyển lên Rau Dừa, tôi có chuyến về huyện nhà lần hai - thời điểm chỉ còn 2 tháng 3 ngày nữa là chiến tranh kết thúc... Ðêm trăng 11 tháng Giêng năm Ất Mão 1975, tôi chèo xuồng đi thẳng vào nhà thăm anh chị Ba ở Cơi Nhì, mới hay có dì Ba - má ruột của Cẩm Vui từ một làng quê đồng bằng Giá Rai xuống tận xóm ven rừng này thăm con, cháu... Anh Ba được điều lên làm cán bộ tỉnh cũng vừa về thăm nhà. Và thật tình cờ, Cẩm Vui cũng có mặt ở đây! Năm trước, tôi tìm theo địa chỉ để chuyển giao lá thư của anh Ba đến tận tay Cẩm Vui, lần này dịp tình cờ gặp tại nhà anh chị Ba, nàng quá giang tôi chuyến về cơ quan X. Từ xa lạ thành quen, người con gái xấp xỉ tôi tuổi đời, chỉ gọi tên chứ không dám gọi em... Tôi nghe tim đập rộn ràng, tình cảm dạt dào khó tả... Tôi với Cẩm Vui rời xóm ven rừng, đi trong bóng xế chiều, rồi đi trong đêm vắng, âm thầm... Và, những dòng ký sự thơ này gợi nhớ hình ảnh đẹp như thế hồi thời chiến:

          …Tình cờ, xóm ven rừng tràm

Gặp nàng bên ấy, nàng giang tôi về

          Xế tà qua những vùng quê

Chiều vượt Sông Ðốc lộng bề gió reo...

         Dừng nhà quen giữa xóm nghèo

Nghỉ tay, nàng đến đổi chèo cho tôi

         Mùi con gái phả qua người

Chợt lòng xao xuyến, bồi hồi chuyến đi…

        Ðường xa, biết nói chuyện gì

Lời nàng ri rí… đôi khi gợi tình…

       Tôi quen chèo chống một mình

Nàng quá giang, nàng đẹp xinh lạ thường

       Cuối đầm, vào sông Thị Tường

Tôi còn ước muốn con đường dài thêm

      Xuồng cặp bến, nàng bước lên

Mình tôi lặng lẽ trong đêm một mình...

Còn 1 tháng 12 ngày nữa mới tới ngày 30/4/1975, tôi với anh Mười Thanh - Nhà văn Nguyễn Thanh - rủ nhau đi chung một chuyến công tác về xã Khánh Bình, Trần Văn Thời.

Chiều xuống, anh em tôi mỗi người một chiếc xuồng be tám, cặp chèo đước bóng dợn, từ Xẽo Trê, Rau Dừa chèo vô Biện Tràng, đổ lên Phát Thạnh… Cứ mải miết chèo, bỏ lại phía sau những cụm vườn, những mái nhà trên từng xóm vắng và trổ ra Sông Ðốc, theo con nước lớn về Rạch Cui vàm...

Chèo đi một đỗi xa, anh em dừng lại, nghỉ tay, hút thuốc. Hai chiếc xuồng cặp vào nhau. Nơi đang ngồi nhả khói phì phà trên dòng Sông Ðốc, anh Mười chỉ cho tôi biết:

- Bên này là Lung Thuộc, bên kia là Mương Củi!

Hai bên bờ Sông Ðốc về đêm vắng lặng, nhìn xuống hướng Chi khu Rạch Ráng chỉ thấy một khối đen đặc trong màn đêm. Vài ánh đèn bão ở mấy hàng cột đáy trên sông lấp loé, chập chờn...

Anh em tôi cứ chèo đổ lên theo con nước lớn trên dòng Sông Ðốc. Giờ này chúng tôi nhìn ánh điện thị xã Cà Mau hắt lên thành 2 vệt sáng trắng như đèn pha. Tôi bồi hồi, nghĩ ngợi, chợt nhớ 2 câu thơ của Lê Anh Xuân cảm xúc khi nhìn ánh điện thành phố Sài Gòn cuối năm 1967 mà hệt như cảnh ở đây:

Cái vầng sáng bồn chồn thương nhớ ấy

        Cứ đêm đêm nức nở gọi ta về!

Chỉ có ngày toàn thắng, cái vầng sáng như nức nở gọi ta về ấy mới thành hiện thực. Nhà thơ Lê Anh Xuân đã hy sinh đợt 2 Mậu Thân 1968, không trở về, không được chứng kiến cảnh chiếc xe tăng quân giải phóng miền Nam húc đổ cánh cổng dinh Ðộc Lập ở Sài Gòn ngày 30/4/1975…

***

Nhớ lại 30 năm trường kỳ kháng chiến, người Cà Mau luôn chắc tay súng, vững tay chèo...

9 năm kháng Pháp thắng lợi, 21 năm chống Mỹ thắng lợi hoàn toàn ngày 30/4/1975, từng đoàn xuồng chèo đã đưa lực lượng cách mạng, hàng ngàn cán bộ, nhân viên, chiến sĩ ta ra tận kinh Rạch Rập, Giồng Kè, vàm Ô Rô, kinh xáng Phụng Hiệp, Hoà Thành - Tắc Vân, tiến vào tiếp quản thị xã Cà Mau. Và kể từ ngày kết thúc chiến tranh cũng đã kết thúc việc đi công tác bằng xuồng chèo. Lớp lớp xuồng được kéo lên giữ trước nhà đồng bào dọc tuyến kinh Rạch Rập như cuộc huy động đưa xuồng lên bờ, lạ lẫm chưa từng có! Khi dần ổn định vị trí ở thị xã mới giải phóng, các anh chị lần lượt trở qua Rạch Rập hoá giá bán lại cho bà con mấy chục chiếc xuồng, đáng nhớ trong đó có chiếc xuồng be tám 3 lá và cặp chèo đước bóng dợn của tôi!

Gần 10 năm sau ngày giải phóng, tôi từ Bến Tre về thăm người chị ruột ở xóm cuối Kinh Tư, xã Trần Hợi... Lần ấy, tôi ngồi xuồng của mấy cháu gái chở hoa màu, như rau cải, bắp chuối, bông súng... xứ đồng ruộng đi bán ở thị trấn Sông Ðốc, để tôi xuống thăm vợ chồng cháu Hương ở vàm Xẽo Quao... Như còn luyến tiếc thời trai trẻ, ra Sông Ðốc, tôi giành đứng chèo suốt đoạn đường, xuống gần tới cửa biển... Cháu tôi khen:

- Cậu chèo hay quá, không lủi chút nào!

Và hình ảnh từng đoàn cán bộ, chiến sĩ hành quân bằng xuồng chèo đã đi vào lịch sử dân tộc suốt 30 năm trường kỳ kháng chiến (1945-1975) ở vùng sông nước Cà Mau!

 

Nguyễn Minh

 

Trường nội trú Cà Mau - Ninh Bình: Những ký ức không phai

Cuối tháng 3/1972, ở đây chưa có mưa, còn là mùa hạn. Thầy Lê Châu, Hiệu trưởng và thầy Năm Thuật, Hiệu phó Trường Nội trú Cà Mau - Ninh Bình, khoá 3, đến Xóm Dừa, Ấp 6A. Cô Mười Mỳ là Bí thư Chi bộ xã Quách Văn Phẩm “B”, huyện Tư Kháng (huyện Ðầm Dơi ngày nay). Các thầy tìm chỗ để cất trường học và chọn vườn cô Út Ngươn để đặt lớp học. Xa ngoài kia, chọn vườn Biện Ðài, Lung Chim và 1 điểm nữa ở Thanh Tùng.

Báo Minh Hải - Niềm tự hào chưa cạn tỏ

Báo Minh Hải là tiền thân của Báo Bạc Liêu, Cà Mau ngày nay. Hơn 20 năm hoạt động, tờ báo này đã trở thành chiếc nôi rèn luyện cho thế hệ báo chí sau ngày thống nhất đất nước. Từ đây, đã có nhiều nhà báo trưởng thành, trở thành cán bộ lãnh đạo của báo chí, văn học nghệ thuật 2 tỉnh và Trung ương, nhiều nhà báo trở thành những tài danh báo chí, văn chương. Hướng tới kỷ niệm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6, chúng tôi trân trọng giới thiệu tâm tình của một nhà báo, nhà văn, người đã sống trọn vẹn suốt thời gian măng sét Báo Minh Hải tồn tại trong lòng độc giả, cùng bạn đọc hôm nay.

Ðể vùng quê… trắng hộ nghèo - Bài cuối: Ðiểm sáng xoá nghèo

Trên cơ sở trợ lực từ nhiều chương trình, chính sách, sự chung tay góp sức của cộng đồng; các cấp uỷ đảng, chính quyền trên địa bàn tỉnh đã sâu sát trong dân, nắm chặt hoàn cảnh hộ nghèo để triển khai đồng loạt biện pháp hỗ trợ phù hợp, hiệu quả; đồng thời giúp người nghèo thay đổi nếp nghĩ, cách làm, khơi gợi ý chí phấn đấu thoát nghèo, hướng đến tương lai tốt đẹp hơn.

Ðể vùng quê… trắng hộ nghèo - Bài 2: Không để người nghèo bị bỏ lại phía sau

Cùng với triển khai đồng bộ các chương trình mục tiêu quốc gia, Cà Mau thực hiện tốt phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”. Phong trào đã lan toả giá trị nhân văn trong cộng đồng, tạo động lực, niềm tin để hộ nghèo, người gặp hoạn nạn sớm ổn định cuộc sống, giúp các địa phương hiện thực hoá mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Ðể vùng quê… trắng hộ nghèo

Cùng với phục hồi và tăng trưởng kinh tế, Cà Mau luôn đặt mục tiêu giảm nghèo là ưu tiên hàng đầu. Bằng những giải pháp đồng bộ, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, ý thức vươn lên của hộ nghèo, cuối năm 2023 Cà Mau còn 1,6% hộ nghèo (giảm 2.507 hộ nghèo), 1,56% hộ cận nghèo (giảm 922 hộ). Ðặc biệt, tỉnh có 170 ấp, khóm và 5 xã, phường, thị trấn xoá trắng hộ nghèo. Ðó là những điểm sáng, lan toả kinh nghiệm, cách làm hay và là động lực trong hành trình giảm nghèo bền vững của tỉnh.

Ðảng tăng cường sức mạnh, dân đồng thuận làm theo - Bài cuối: Phải thật sự gần dân, sát cơ sở

Đến thời điểm này, có thể khẳng định chủ trương trước đây của Huyện uỷ Phú Tân về cải tạo vườn tạp, trồng hoa màu, mang lại hiệu quả kinh tế hộ; hay như việc tận dụng trồng cây xanh ven sông để ngăn chặn sạt lở... đã mang lại kết quả đáng tự hào, được Nhân dân trong huyện tích cực hưởng ứng tham gia, lan toả. Nhìn từ Phú Tân, các địa phương khác có điều kiện tương tự, học tập làm theo và cũng đạt kết quả đáng phấn khởi. Bài học rút ra là cái gì mang lại lợi ích thiết thực vì việc chung sẽ được người dân tích cực đồng lòng chung tay, góp sức.

Ðảng tăng cường sức mạnh, dân đồng thuận làm theo - Bài 2: ...Ðến chỉ thị cấp bách

Trước những biến đổi khó lường của thời tiết, ngày 16/2/2024, Huyện uỷ Trần Văn Thời đã ban hành Chỉ thị số 09-CT/HU (Chỉ thị 09) về tăng cường các biện pháp ứng phó, khắc phục hậu quả do hạn hán gây ra, nhằm huy động sức mạnh cả hệ thống chính trị để ứng phó, giảm thiểu tác động. Ông Nguyễn Minh Nhứt, Bí thư Huyện uỷ Trần Văn Thời, cho biết, Chỉ thị 09 ban hành phù hợp thực tiễn, tạo được sự đồng thuận, tham gia tích cực của các tầng lớp Nhân dân, tạo chuyển biến trong nhận thức, hành động của từng cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên... vì việc chung.

Ðảng tăng cường sức mạnh, dân đồng thuận làm theo

Trong quá trình chỉ đạo, điều hành bộ máy chính trị của Ðảng và Nhà nước, có những việc cần định hướng với tầm nhìn chiến lược dài hơi, có quá trình thực hiện mang tính giai đoạn; có những việc mang tính cấp bách, cần tập trung xử lý ngay, dứt điểm trong thời khắc nhất định. Song, tất cả đều hướng đến mục tiêu là nhằm lan toả chủ trương hợp lòng dân, sát thực tế, được cụ thể hoá đi vào đời sống Nhân dân, nâng cao nhận thức đúng đắn để cùng chung tay thực hiện nhiệm vụ chính trị với quyết tâm cao nhất vì sự an toàn, phát triển nhanh và bền vững của xã hội… Ðảng tăng cường sức mạnh, dân tin tưởng làm theo sẽ tạo nên nội lực vững chãi, vượt qua mọi khó khăn, thách thức.

Biển có vững, bờ mới yên - Bài cuối: Quân - dân nghĩa tình

“Trường Sa vì Tổ quốc”, “Cả nước vì Trường Sa”, những tiếng hô đồng thanh vang vọng giữa trùng khơi khi tàu rời cảng Trường Sa đã nói lên phần nào sự gắn bó máu thịt của tình quân - dân. Nghĩa tình ấy chính là sức mạnh để Trường Sa, vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, luôn luôn vững vàng nơi đầu sóng ngọn gió.

Biển có vững, bờ mới yên - Bài 2: Ðiểm tựa vững chắc của ngư dân

Mỗi điểm đảo trong chuyến công tác đều để lại trong tôi cũng như các thành viên trong đoàn những ấn tượng, cảm xúc thiêng liêng, tự hào. Quân dân Trường Sa không chỉ luôn kiên định, vững vàng, đoàn kết trong lao động, sản xuất, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc mà còn là điểm tựa vững chắc cho ngư dân vươn khơi bám biển.