Cuối tuần về quê chơi ngay dịp nhà thuốc cá, tôi hí hửng xắn quần, cầm vợt ra vuông “hành nghề”… vớt cá. Ðợi 10 phút, rồi 20 phút đi qua, chỉ có vài con cá sơn, cá phi thoi thóp, tôi quay sang chế Hai hỏi: “Sao không có cá gì hết vậy chế?”. Chế bảo: “Mấy năm nay môi trường bị ô nhiễm, tôm chết triền miên, cá cũng vì môi trường xấu mà giảm hẳn”.
Cuối tuần về quê chơi ngay dịp nhà thuốc cá, tôi hí hửng xắn quần, cầm vợt ra vuông “hành nghề”… vớt cá. Ðợi 10 phút, rồi 20 phút đi qua, chỉ có vài con cá sơn, cá phi thoi thóp, tôi quay sang chế Hai hỏi: “Sao không có cá gì hết vậy chế?”. Chế bảo: “Mấy năm nay môi trường bị ô nhiễm, tôm chết triền miên, cá cũng vì môi trường xấu mà giảm hẳn”.
Nhớ ngày xưa, mỗi lần thuốc cá vui lắm. Một nhà thuốc cá, có khi rủ cả xóm lại bắt cá tiếp. Cha tôi ngồi trên chiếc xuồng ba lá, trước mặt là thùng thuốc cá, tay cha cầm cái ca tạt thuốc đều khắp.
Thuốc cá vuông. Ảnh: THANH CHI |
Chỉ vài mươi phút sau là dưới vuông rất nhiều cá thấm thuốc ngoi ngóp đâm đầu vào bờ. Chị em tôi, rồi mấy anh em ở xóm cũng lại bắt cá phụ, người vợt, người thùng cứ thế mà toả ra bắt cá.
Cá đối, cá chét trắng phau phau cứ ngoan ngoãn theo vợt nằm gọn vào thùng. Cá ngát thì quơ 2 hàm râu ngoe nguẩy nhưng có tiếng động là lại lặn xuống đáy. Còn cá nâu thì cứ tẹt qua tẹt lại quơ hàng gai sắc lẹm.
Ðang bắt cá ngoài trước thì nghe tiếng chế Hai tôi oai oái. Thì ra, con cá nâu cao hứng tẹt vào ống quần của chế. Nhanh tay, chế Hai túm ngang đầu gối… Hú hồn!
Người dân xứ vuông sợ nhất là con cá ngát, nếu ai bị cá ngát đâm thì ăn không được mà ngủ cũng không xong. Chỉ có nước “treo giò” chịu. Cá nâu đâm thì cũng nhức, chỉ thua cá ngát một tí. Vì vậy mà sau khi túm được chú cá nâu tổ chảng đi “lạc đường” vào ống quần, tụi tôi xúm lại chọc ghẹo chế om sòm.
Sau khi bắt cá từ hậu vuông vô tới miệng cống, cha tôi lại lội ngược ra hậu vuông, người dân quê tôi gọi là “bắt cá hôi”. Thường những con cá lớn thấm thuốc chậm nên bắt cá hôi hay được những con cá lớn.
Thu hoạch cá xong, mẹ phân loại. Những con cá lớn mẹ đem biếu họ hàng và những người tham gia bắt cá, một ít để ăn, số còn lại bán cho thương lái. Cá nhỏ mẹ đem làm mắm, làm khô. Và cuối cùng thế nào cũng có một bữa ăn “thịnh soạn” từ những chú cá vừa bắt được để đãi những người tham gia bắt cá và cả gia đình.
Tuy đông người bắt nhưng thế nào cũng bị sót cá. Hôm sau, những con cá chết chìm bắt đầu nổi lên mặt nước. Cha lại bơi xuồng, chở cái thùng với cây vợt cán dài vớt chúng đem vô cho mẹ làm mắm chua. Nếu có cá chẽm bự cha đem chưng, bỏ tiêu, hành, mỡ thơm phức rồi rủ vài ông bạn già lai rai…
Giờ thì môi trường ô nhiễm nên kiếm được con cá chẽm bự hơi bị hiếm. Nhìn vào số cá vớt được chẳng đáng là bao, tôi thấy cha lắc đầu thở dài: “Thuốc cho nó sạch đất vậy thôi, chứ có cá mắm gì đâu, kiểu này còn không đủ tiền mua thuốc cá nữa!”.
Tôi lên xe trở về phố thị nhưng trong lòng nặng trĩu, nhìn những miếng vuông bạt ngàn nước, trong hơi gió thoáng qua có mùi tôm chết tanh nồng. Tiếng thở dài của cha, lời nói của chế Hai: môi trường bị ô nhiễm nên tôm, cá đều không sống nổi, cứ ám ảnh trong tôi./.
Gia Hân