(CMO) Những ngày giáp hạt, cứ một hai bữa là thấy thằng Tèo đứng chình ình trước cửa nhà tôi, quen mặt tới mức thấy nó mấy con chó không buồn sủa. Tèo trạc tuổi tôi chứ bự con gấp rưỡi, sức khoẻ thì cứ như trâu. Nó ở trần cùi cụi quanh năm, đưa cái bụng chang bang, nước da đen sì với cái rốn lồi ngoại cỡ phơi phơi ngoài nắng. Tèo có thói quen chỉ đi vô cửa nhà sau, đầu đội cái thau gang móp méo, miệng cười nhăn nhở… Nó không nói tiếng nào, chứ má tôi nhìn là hiểu ý liền. Nó qua mượn gạo.
Đi mượn gạo chứ không bao giờ Tèo lên tiếng trước, chờ chủ nhà hỏi nó mới trả lời. Khi năm, khi sáu, có lúc mười lon. Những lúc “tần suất” xuất hiện của thằng Tèo hơi nhặt, má tôi hay kêu mấy chị dâu xúc thêm vài lon so với yêu cầu, khỏi mất công hôm sau nó lại quay sang. Tấm ván so đũa vừng vách chỗ khạp gạo trong nhà bếp chi chít vết gạch bằng than củi; một ô vuông gạch chéo là năm lon, đó là số gạo nhà thằng Tèo mượn chưa trả. Năm nào hạn càng dai là số lượng ô vuông càng nhiều, có khi dài như cái sớ.
Chuyện đi mượn gạo không phải của một mình thằng Tèo, mà cả xóm tôi hồi xưa, hầu như ai cũng trải qua. Ở nông thôn, gạo không phải là hàng hoá, nên trong nhà hết, muốn mua cũng không có. Nông dân lúc nào cũng sẵn lúa, thấy khạp lưng gạo thì đi xúc vài bao, vác xuống xuồng chở đi chà, đem về ăn tiếp.
![]() |
MH: Kiều Loan |
Người đi chà gạo thì nhiều mà số lượng máy chà chỉ đếm trên đầu ngón tay, thế mới có chuyện đem lúa lại nhà máy rồi phải gửi lại, chủ máy cho cái số thứ tự, sớm thì bữa sau, muộn thì đôi ba ngày mới "tới số chà gạo". Những ngày chờ đợi, nếu trong nhà hết gạo thì cắp thau, đội thúng qua hàng xóm mượn về nấu đỡ. Mượn qua mượn lại, ai cũng vui vẻ giúp nhau. Nhà nghèo như ba má thằng Tèo thì mượn gạo thường xuyên bởi phải chạy ăn từng bữa. Lắm khi, không có gạo trả thì qua nhà chủ nợ làm việc gì đó để trừ. Nói nghe có vẻ nặng nề chứ thật ra chẳng có gì to tát, vì cái tình cái nghĩa láng giềng lúc nào cũng như bát nước đầy. Thương nhau không hết, hơi đâu mà sân si, hờn giận.
Không biết chỗ khác thì sao, chứ ở xứ tôi “hễ cái gì đem đi được là cho mượn được”. Sắp Tết là vào mùa cưới hỏi, nên cái vụ mượn đồ của nhau cũng náo nhiệt hơn. Mỗi khi nhà ai có đám tiệc là cánh thanh niên kéo tới rần rần, rồi tự động lấy xuồng về nhà chở ván ngựa qua cho mượn. Đám hồi đó không bắc bàn ghế như bây giờ mà người ta kê ván ngựa liền kề nhau, thành từng dãy dài cho quan khách ngồi. Hết đám, đem chùi rửa sạch sẽ, lật mặt dưới lên xem ghi tên của nhà nào thì chở lại trả cho nhà đó.
Đàn ông bao chuyện nặng nhọc, phụ nữ thì lo bếp núc. Biết hàng xóm có đám là tự động “lội” qua, tay cầm theo cây dao, nhào vô bếp phụ việc. Người có tài chỉ huy thì làm “thợ nấu”, giao việc cho tay em, người lo khâu rau củ, người bằm thịt, người bắt mâm, trang trí, con nít thì lo bưng bê, sai vặt… Tất cả diễn ra nhịp nhàng và không kém phần khoa học.
Tôi hồi đó, nhờ đi học võ vẽ đôi ba chữ nên hay được hàng xóm mượn vẽ bảng “tân hôn”, “vu quy” treo đám. Có nhà còn bài bản tới mức chuẩn bị cái bảng, nhờ người chữ đẹp viết những dòng nắn nót, phân công rạch ròi ai lo khâu đón khách, ai chịu phần trà nước… Tới đoạn đưa, rước dâu thì phải đi mượn vài chiếc xuồng máy; mượn chiếu bông lót ngồi, rồi mượn cả mấy cây dù cho cô dâu, chú rể và thành viên trong đoàn che nắng.
Cây cầu khỉ trước nhà tôi xưa là nơi tụ họp của tụi con nít, chờ coi xuồng đưa rước dâu. Biết đầu trên, xóm dưới có đám cưới, đám gả là cả đám ra ngồi chờ sẵn; hễ nghe tiếng máy, xuồng xuất hiện xa xa là reo hò, rồi hộc tốc chạy đuổi theo cho đến khi… hết hơi mới thôi. Tới bây giờ, cái cảnh xuồng rước dâu chở đầy nam thanh nữ tú xúng xính quần áo mới, che những cây dù đủ màu sặc sỡ… chạy băng băng trên sông vẫn là một phần ký ức khó quên. Mấy anh trai làng, thấy đi đưa rước dâu, cầm dù che cho chị nào một vài lần, thì y như rằng không bao lâu hai người trở thành… cô dâu, chú rể.
Mùa cưới gả, nam nữ tới tuổi cặp kê thường qua hàng xóm mượn cái bàn ủi con gà về đốt than ủi đồ láng bóng. Thậm chí, người ta còn hỏi mượn đồ “vía” của nhau như quần áo, đồng hồ, dép lào, nón nỉ… để đi “cua ghệ”. Anh trai tôi hồi xưa có cái quần tây rất đẹp, cưng như trứng mỏng mà thằng cháu trạc tuổi cứ hỏi mượn hoài. Cháu nhà nghèo, ở xứ xa xuống Cà Mau làm mướn rồi để ý một cô ở xóm bên. Cứ vài ngày lại mò qua òn ỉ mượn… cái quần của chú Tư để đi chơi. Khổ thân ông anh tôi, vì thương thằng cháu nên khó lòng từ chối. Có bữa tính diện đồ đẹp đi chơi, cháu hỏi mượn thì nhường luôn. Tới nó cưới được cô kia thì cái quần đã rách vài lỗ. Sau này, cháu hay nhắc chuyện cũ, cảm ơn hồi xưa nhờ chú cho… mượn quần mà cưới được vợ hiền, sanh con thảo.
Cà Mau là xứ sông nước, cái thời lộ làng chưa phát triển thì phương tiện đi lại chủ yếu là chiếc xuồng ba lá. Ban đầu chèo, sau này đặt máy đuôi tôm. Tuy nhiên, không phải nhà nào cũng mua được chiếc xuồng cho đàng hoàng, nên khi cần đi đâu xa phải chạy qua hỏi mượn của hàng xóm. Xuồng, máy cũ không nói gì, chứ đồ mới toanh mà đem cho mượn thì trong bụng cũng “xót xót”, không cho mượn bị mang tiếng “làm hiểm” với láng giềng còn tệ hơn. Xóm tôi có ông kia nảy ra “sáng kiến” mua xuồng máy mỗi lần một cặp, cái gia đình xài, cái thì để dành cho mượn. Chất chơi đến thế là cùng.
Đồ mình ưng ý, cho mượn xài thì xót là tâm lý bộc phát một cách tự nhiên, chứ không phản ánh bản tính của người Cà Mau, vốn đã được công nhận là trượng nghĩa và hào sảng. Tôi biết có nhiều người cho người khác mượn đất cất nhà, cho mượn đất đai canh tác, bạc tiền làm vốn… mà không mảy may suy nghĩ thiệt hơn. Rồi có những thứ, biết đưa ra là sẽ mất nhưng vẫn sẵn lòng cho mượn. Má tôi hay kể, hồi xưa ba tôi đã nhiều lần cho cán bộ kháng chiến mượn xuồng chở người, chở vật liệu, khí tài… có người còn mượn tiền, tới giờ vẫn còn giấy biên nhận. Khi hoà bình, có người gợi ý đi làm giấy báo công, ba tôi chỉ cười chứ quyết không làm. Ông xem đó như là đóng góp của công dân cho đất nước.
Có những gia đình nghèo, người thân qua đời phải đi mượn ván ngựa của hàng xóm để đóng hòm chôn. Biết cho mượn là người ta không có khả năng trả, nhưng ít có ai lắc đầu từ chối. Kể vậy để thấy rằng, cái tình cái nghĩa giữa người với người dân quê tôi đã vượt qua những đắn đo về lợi ích vật chất đơn thuần, có lẽ phải qua quá trình hun đúc nhiều đời mới có được.
Còn nhớ cũng vào một dịp gần Tết, tôi có chuyến công tác về ngay xã nhà. Mọi việc xong xuôi, các chú cựu chiến binh tổ chức bữa cơm thân mật thết đãi hai “thằng em nhà báo”. Rượu vào lời ra, anh đồng nghiệp đi chung giới thiệu tôi là người xứ này. Nghe chuyện, có một chú ngoài bảy mươi từ bàn bên bước qua. Chú nhìn tôi chằm chằm rồi lẳng lặng gom ba cái ly trên bàn, xề qua bàn gần đó lấy thêm ba cái nữa. Chú đặt ba cái ly ngay ngắn trước mặt mình, rồi rót. Rượu tràn sóng sánh miệng ly, chú lấy chiếc đũa làm động tác gạt ngang, y như người ta gạt lúa trên miệng táo. Cái ly bụng bầu, thường ngày người ta để uống trà, nay đem rót rượu. Rót hơi cao một chút đã “quá hớp”, đàng này rượu lên tới miệng, nhìn thôi đã ngán rồi. Chú lẳng lặng uống cạn ba ly, không chừa lại giọt nào, rồi rót ba ly như vậy cho tôi, bắt phải uống cho kỳ hết.
Chờ tôi uống xong, chú mới giới thiệu: “Tao với ba mày hồi xưa làm ní. Mày giống hệt ba mày, nghe nói là chú nhìn ra ngay”. Lúc đó, tôi mới nhận ra chú Bảy, chú ruột của thằng Tèo “mượn gạo” hồi xưa. Chú Bảy trước cũng nghèo và chơi khá thân với ba tôi. Lâu rồi không gặp nên tôi nhất thời không nhận ra chú.
Chú Bảy nắm tay tôi, bồi hồi ôn lại chuyện cũ, nhắc về cái nghĩa, cái tình của người dân quê xưa. Chú bảo: “Mừng là tụi nhỏ bây giờ vẫn sống có nghĩa có tình, cái này tiền muôn bạc vạn cũng không mua được đâu, cháu à!”.
Tôi lắng nghe, mà như uống vào lòng từng lời của chú Bảy. Chợt nghĩ, ba ly rượu chú rót khi nãy cũng giống những bát nước đầy sóng sánh, y như cách người dân quê đối đãi với nhau vậy đó!
Tuấn Ngọc