Thứ tư, 10-9-25 12:42:50
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Tôi đi học

Báo Cà Mau

Minh hoạ:  Lý Kiều Loan

Cơn mưa lớn hồi sáng sớm làm chiếc xuồng be chín đậu dưới mé sông lé đé nước, gần chìm.

Sau một hồi lắc cật lực, tát mỏi cả tay thì nước cũng khô. Tôi chỉnh lại mấy cái sạp rồi lấy cây sào tre cặp sát xuồng vô bờ.

Nghe tôi réo, anh Tư vác “đồ nghề” xuống bến, rồi hai anh em chuyển xuống xuồng. Ðồ nghề mà tôi nói là mấy cây trâm bầu chừng bằng cườm tay, mớ ván còng mới xả, mặt ván còn bám bụi, cây cưa, cây búa, bọc đinh và vài thứ lặt vặt khác. Sắp xếp xong xuôi, anh Tư cầm sào chống sau lái, tôi ngồi mũi bơi đi. Hôm nay là ngày tôi tựu trường.

Từ nhà tôi đến trường học chừng hơn một cây số, vừa chống, vừa chèo khoảng mười lăm phút là tới.

Trường tôi học những năm tiểu học là điểm trường ấp, có 5 phòng học, vừa đủ cho 5 lớp học buổi sáng và 5 lớp học buổi chiều.

Trường cũng mái ngói, vách xây gạch nhưng cơ sở vật chất vẫn còn lắm khó khăn. Mái ngói thì nơi lành nơi thủng, tường thì xây gạch đã lâu nhưng chưa trát bê-tông.

Trường có rất nhiều cái không: không tường rào, không nhà vệ sinh, không sân bê-tông. Cửa chính và cửa sổ cứ để tênh hênh, không che chắn, mặc cho gió từ ngoài sông thổi vào lồng lộng. Nền trường, từ trong ra ngoài toàn bằng đất lổm chổm, nứt nẻ. Và còn một cái “không” nữa, là lý do khiến anh em nhà tôi phải mang vác đồ nghề lỉnh kỉnh khi đi tựu trường, đó là không bàn ghế. Chính vì vậy, mỗi đầu năm học, phụ huynh phải mang cây ván tới đóng bàn học cho con em mình. Một cái bàn hai đứa ngồi, theo nguyên tắc thời đó là phụ huynh có con em học cùng lớp sẽ tự “bắt cặp” với nhau, tức là tìm một ai đó rủ nhau hùn vật liệu, đóng bàn cho tụi nhỏ ngồi chung. Nhà có nhiều con em đi học thì xin nhà trường xếp phòng học sao cho cái bàn ấy có thể phục vụ cho cả hai buổi sáng, chiều. Ngoài đóng bàn cho tôi và hai chị gái học khác buổi, anh Tư còn phải lo đóng bàn cho mình, vì anh là giáo viên của trường.

Xuồng chống tới nơi, đã thấy nhiều xuồng khác buộc dưới bến. Mỗi người một tay, giúp nhau khẩn trương chuyển vật liệu lên các phòng học, rồi bắt đầu công đoạn đóng bàn học cho đám học sinh. Tuỳ theo sức vóc, khả năng mà mỗi người một việc. Người thì đẽo cây, vạt nhọn rồi đóng thật chặt xuống đất; người thì đo đạc, cưa ván, bào nhẵn để đóng mặt bàn, làm chỗ ngồi. Những cái bàn năm học trước còn sót lại được gia cố, sửa lại cho chắc chắn rồi xài tiếp.

Bàn học sinh thời đó không có cái hộc phía dưới như bây giờ. Học sinh đến lớp cũng không đứa nào có cặp mang. Sách vở, đứa thì gộp chung lại rồi cứ thế ôm từ nhà tới trường, đứa nào kỹ hơn thì đựng trong cái bọc xà bông. Cũng may là những năm đó sách vở, đồ dùng học tập khá ít và đơn giản, chứ nhiều như chương trình bây giờ không biết tính sao?

Trong khi người lớn lo đóng bàn ghế, đám học sinh, dưới sự chỉ huy của thầy cô chủ nhiệm và lớp phó học tập thì lo làm vệ sinh bên trong, bên ngoài lớp học; sắp xếp lại khu vực bục giảng, lau chùi bảng đen; chặt cây, dọn cỏ bên hè cho thoáng đãng.

Do trường nằm gần khu vực nhà ở của người dân, 3 tháng hè không có người coi sóc nên khâu vệ sinh đầu năm học khá gian nan. Bà con gần đó thường nhân khoảng thời gian nghỉ hè, lấy sân trường, phòng học làm chỗ thả gà, vịt nuôi và mang… heo vào buộc. Vài người thiếu ý thức còn nhổ bàn, ghế học sinh về làm… củi chụm hoặc lấy ván, lấy đinh; trên tường thì dấu vẽ bậy, viết bậy chi chít. Thế nên, cứ vào năm học là thầy cô, phụ huynh và học sinh lại một phen vất vả, dọn dẹp cả ngày thì phòng học mới tươm tất để kịp ngày khai giảng và học tập trong năm học mới.

Tới ngày khai giảng, học sinh thường chọn bộ đồ đẹp nhất, tóc tai cắt tỉa gọn gàng, khăn quàng đỏ tươi tới lớp. Thời tôi học cấp một, tuyệt nhiên không có đồng phục, áo cũng không phù hiệu. Tập, vở đi học được bao bằng những tờ báo cũ, nhà nào có điều kiện thì bao bằng báo Liên Xô. Trường không yêu cầu dán nhãn nên trên góc tập thường ghi nắn nót cái tên vậy thôi, không ghi lớp vì phòng cái bìa bao ấy năm sau còn tốt thì dùng lại. Một tờ báo Liên Xô có khi bao tập được 2, 3 năm học; mặt bao phía ngoài cũ thì lộn ra, lấy mặt trong xài tiếp.

Ði học trong điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất khó khăn, nhưng bạn bè tôi đứa nào cũng ngoan, chăm học. Ðặc biệt, trong mắt học sinh thời đó thầy cô là “số một”. Ở nhà với cha mẹ có khi còn dám ương bướng, không nghe lời chứ gặp thầy cô là sợ một phép. Những đứa trò hư, bày trò quậy phá hoặc không thuộc bài, không làm bài tập về nhà… bị thầy cô phạt thường xuyên. Các hình thức phạt phổ biến là đứng tại chỗ, ra đứng trước cửa, hay đứng trong góc lớp. Những lỗi nặng còn bị bắt quỳ tại chỗ, quỳ trên bục giảng. Ðứng, quỳ bao lâu tuỳ vào lỗi nặng hay nhẹ. Trong một tiết học có khi đến 5, 7 đứa bị phạt, lớp đứng lớp quỳ. Thậm chí, nếu mắc lỗi nặng, học sinh còn bị thầy cô bắt xoè bàn tay ra rồi đánh bằng thước bảng.

Tuy bị phạt nặng, nhưng chưa thấy đứa học trò nào dám phàn nàn hay oán trách thầy cô; phụ huynh học sinh cũng chẳng ai bênh vực, phản ứng. Sau này, nhiều đứa trưởng thành, thành đạt, khi gặp lại thầy cô cũ còn nói tiếng cảm ơn, vì nhờ những lần bị phạt năm xưa mà sửa được thói hư, tật xấu.

Trường cũ của tôi nằm cách con sông xáng, bề rộng chừng 20 m. Những hôm đi bộ tới bờ sông, không có xuồng quá giang qua bờ bên kia, tôi và đám bạn lại cởi quần áo, bọc sổ sách rồi bơi qua. Tan học, chúng tôi lại lượm gạch tàu, ngói bể mài đạn bắn, hoặc chơi trò rượt đuổi trên sông. Mới tí tuổi đầu, chứ đứa nào cũng bơi, lặn giỏi như rái cá.

Ngày tháng qua đi, hết tiểu học chúng tôi chuyển lên trường xã. Ðám bạn cũ rơi rụng dần dần, bởi đứa thì qua xã khác học, đứa thì bỏ đèn sách theo gia đình vào cuộc mưu sinh. Lên cấp ba, rồi đại học thì còn hơn chục đứa thường xuyên gặp nhau, bạn cũ vài đứa vẫn còn nghèo, đứa trở thành nông dân sản xuất giỏi, đứa trở thành “ông này, bà nọ”. Xã hội hiện đại, thông tin liên lạc thuận tiện cũng khiến việc kết nối bạn bè dễ dàng hơn, nhưng cũng có những đứa hồi xưa rất dễ thương, nhưng hơn 30 năm rồi chưa một lần gặp lại. Trên đường về quê, thỉnh thoảng tôi dừng lại để ngắm ngôi trường thân yêu của mình khi xưa, hầu tìm lại chút dĩ vãng đẹp, với hình bóng thầy cô, bạn bè thân thiết. Trường giờ đã khang trang hơn nhiều. Chắc vì nằm ở vị trí thiết yếu, nên dù là điểm lẻ, nhưng trong các đợt sắp xếp trường lớp vừa rồi, ngôi trường ấy vẫn được giữ lại. Tôi thấy vui vui.

Dịch Covid-19 khiến cuộc sống đảo lộn. Theo lịch cũ thì đúng một tuần nữa học sinh Cà Mau sẽ tựu trường, ngày 5/9 khai giảng năm học mới. Hai ngày trước, dịch diễn biến phức tạp, UBND tỉnh đã chỉ đạo hoãn ngày khai giảng, chờ thông báo mới. Vậy là hai đứa con tôi cùng hàng vạn học sinh khác vẫn chưa biết được ngày đến trường của mình.

Tình hình này, có lẽ học sinh đến trường phải làm bạn với chiếc khẩu trang một cách lâu dài, và thậm chí nếu dịch phức tạp thì phải học tại nhà qua truyền hình hay Internet. Những phương pháp ấy, có chăng cũng chỉ là tình thế, không thể hiệu quả bằng học ở trường, nơi có thầy cô tận tình chỉ bảo và bạn bè thân thiết xung quanh. Những ngày này, sự tương tác, giao lưu giữa người với người vốn là chuyện tự nhiên xưa nay, bỗng chốc trở thành xa xỉ.

Học sinh thời nay trường lớp khang trang, vật chất đủ đầy, nhưng xem ra chưa hẳn là sướng hơn chúng tôi đi học hồi 30 năm trước. Nếu là ngày ấy, từ hôm nay, tôi đã sẵn sàng để đến trường rồi.

Gần đây, người ta vẫn hay nói một câu tưởng ngược đời, mà lại đúng “Bao giờ cho đến ngày xưa”!

 

Tuấn Ngọc

 

Xẻo Đước anh hùng

Những người dân cố cựu ấp Xẻo Đước, trong đó có những người trực tiếp tham gia công tác tại các cơ quan của Tỉnh uỷ Cà Mau khi nhắc nhớ Khu Căn cứ Tỉnh uỷ Xẻo Đước (ấp Xẻo Đước, xã Phú Mỹ) là giọng nói sôi nổi, đôi mắt sáng rực, lòng trào dâng sự tự hào khôn tả.

Mùa vú sữa trên miền quê mới

Tháng 8, khi từng cơn gió từ biển Tây lướt qua rặng đước, rừng tràm bạt ngàn xanh thẫm, cũng là lúc lòng người dân Cà Mau lại trào dâng xúc động, thành kính nhớ về Bác Hồ. Hơn 55 năm kể từ ngày Người để lại bản Di chúc thiêng liêng, mỗi câu chữ vẫn còn vẹn nguyên giá trị, soi sáng hành trình cách mạng, nâng đỡ ý chí và tinh thần Nhân dân trên từng nẻo quê hương cực Nam của Tổ quốc.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài cuối: Hành động để đổi mới, vươn xa 

Nghị quyết 68 đã xác định những mục tiêu chiến lược, nhưng mục tiêu ấy không thể biến thành hiện thực nếu khâu tổ chức thực hiện thiếu sự tập trung, quyết liệt. Để nghị quyết thực sự đi vào đời sống xã hội một cách thực chất, trở thành nền tảng, động lực và khơi dậy khát vọng, thành tựu phát triển của khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) trong kỷ nguyên vươn mình, cần lộ trình hành động rõ ràng và quyết tâm cao độ. 

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài 3: Cơ hội vàng để kinh tế tư nhân cất cánh

Những nội dung mang tính đột phá của Nghị quyết 68 được kỳ vọng sẽ tạo cú huých lớn cho kinh tế tư nhân (KTTN) phát triển mạnh mẽ. Sự đồng hành, hỗ trợ và kiến tạo của Nhà nước sẽ là "chất xúc tác" để khu vực KTTN phát huy tối đa tiềm năng, bứt phá, đóng góp to lớn hơn vào sự thịnh vượng và phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài 2: "Đêm trước" Nghị quyết 68

Trước khi Nghị quyết 68 ra đời, trên địa bàn tỉnh Cà Mau, hộ kinh doanh cá thể (KDCT), doanh nghiệp (DN) nhỏ/siêu nhỏ cùng lúc đứng trước 2 vấn đề tưởng chừng mâu thuẫn với nhau, đó là "chưa thể lớn" và "chưa chịu lớn", thế nhưng chúng lại liên quan chặt chẽ nhau, phản ánh thực tại bức tranh cộng đồng DN nhỏ/siêu nhỏ và các hộ KDCT của tỉnh.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng"

Trong giai đoạn “sắp xếp lại giang sơn”, Nghị quyết 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 (Nghị quyết 68) về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) được Bộ Chính trị ban hành. Với tinh thần xoá bỏ định kiến, tạo điều kiện đột phá, Nghị quyết 68 là sự khẳng định mạnh mẽ của Đảng về vai trò then chốt, động lực quan trọng hàng đầu của khu vực KTTN trong tiến trình phát triển đất nước. Ví như câu chuyện về Thánh Gióng trong truyền thuyết xưa, Nghị quyết 68 đã cung cấp đầy đủ điều kiện chín muồi để KTTN đủ sức chuyển hoá thành những thành tựu phát triển rực rỡ, kỳ diệu của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình.

Yêu Tổ quốc từ phía Trường sa

Trong những ngày cả nước hướng về kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, nhìn trên bản đồ phía biển Đông - nơi 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa máu thịt của Việt Nam sừng sững hiên ngang trước muôn trùng sóng gió và kẻ thù, lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc trong mỗi người sẽ cuồn cuộn dâng trào.

Hơn 30.000 đóa hoa bất tử!

Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ cứu nước, với lòng yêu quê hương và căm thù giặc sâu sắc, lớp lớp người con ưu tú của Cà Mau đã tham gia cách mạng, hăng hái chiến đấu, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh để giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc.

Phát huy sức trẻ sau tinh gọn bộ máy - Bài cuối: Tâm thế vững vàng, sẵn sàng thích ứng

Sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy, tổ chức Đoàn - Hội ở Cà Mau đối mặt với nhiều thách thức như: giảm nhân sự, tăng áp lực công việc; khan hiếm nguồn cán bộ kế cận; phong trào thanh niên một số nơi rơi vào trầm lắng... Nhận diện những thách thức này, cán bộ Đoàn - Hội "hiến kế" nhiều giải pháp đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với thực tiễn của địa phương để nâng cao năng lực đội ngũ và phát triển phong trào.

Tôi luyện bản lĩnh thời kỳ chuyển mình

Thời kỳ mới, công tác huấn luyện tân binh trong lực lượng vũ trang, đặc biệt là cảnh sát cơ động và phòng cháy, chữa cháy, được chú trọng đổi mới toàn diện, sát thực tế, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao.