ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 21-4-25 11:42:08
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Trở lại U Minh

Báo Cà Mau (CMO) Tôi biết U Minh Hạ lần đầu hồi 25, 26 tuổi gì đó, tức khoảng 35 năm trước. Đó là thập niên 80 của thế kỷ 20. Chuyến ấy tôi đi U Minh để viết về phong trào trồng rừng. Tôi theo chân của Tỉnh đoàn. Hồi đó họ kêu gọi và thành lập một Trung đoàn Thanh niên xung phong để về U Minh trồng rừng với tên gọi mỹ miều là “Đi lập lại màu xanh U Minh bất khuất”.

Minh hoạ: Minh Tấn

Lúc đó mưa già, rừng ngập nước lênh láng. Cảm giác đầu tiên của tôi là thấy mưa ở rừng sao mà dài đến lê thê. Mặt trời mới xuống đọt cây thì màn đêm đã phủ lấy rừng đại ngàn. Đó cũng là lúc thế giới của rừng trở nên sinh động. Muỗi từ rừng túa ra; ăn cơm, nói chuyện chơi cũng phải vào mùng. Dưới làn nước đỏ U Minh là những bầy cá dày đặc, chúng táp mồi, chúng ăn máng như có kẻ nhát ma người lạ. Trên cây thì tiếng chim cò, dơi, khỉ… gọi nhau nháo nhác. Dưới chân rừng là chồn, rái, nai… chạy săn mồi xèn xẹt. Nơi đây là xứ sở của nhà trào phúng dân gian Ba Phi và 1.001 truyện cười của ông. Tức cảnh sinh tình thôi mà. U Minh giàu sản vật đến nỗi ai chưa đặt chân đến cũng không thể tin. Tay lưới của Tiểu đội 3 kéo lên khiến tôi sững sờ: 3 con rắn ri tượng to bằng bắp tay và vô số cá rô, lóc, trê, sặt bổi. Đang thời điểm nước lụt, trăn, rắn hổ và kỳ đà… bò lên các thềm đìa gò mối lúc nhúc. Lời khuyến cáo của lãnh đạo trung đoàn cho quân trồng rừng của họ là ngủ phải chèn chân mùng cho kỹ. Vậy mà một thanh niên xung phong ngủ dậy giũ mùng, mền lọt ra một con rắn hổ đất, sợ quá anh ta đào ngũ luôn.

Sáng hôm sau, tôi nhảy xuống chiếc vỏ lãi cùng với anh Lê Bé, Uỷ viên Tỉnh đoàn, Trung đoàn phó Thanh niên xung phong đi một vòng để khảo sát rừng U Minh Hạ. Và rồi thật bất ngờ, rừng U Minh trước mắt tôi như vừa trải qua một cơn bão hay một trận B52 bừa. Rừng sập và cháy đen. Có những cây tràm to cả ôm nằm sóng soài trên thảm cỏ năn, phèn xì lên vàng oánh. Một vạt rừng cháy rộng đến mút tầm mắt chúng tôi. Ở đó chỉ còn lại lưa thưa vài cây tràm nghiêng ngửa, cụt đầu. Không biết có phải vì là người bản địa mà đôi mắt Lê Bé xốn xang lạ thường. Bắt đầu từ năm 1984 đến 1986, trong 3 năm ngọn lửa đã thiêu trụi hơn 100.000 ha rừng nguyên sinh của U Minh Hạ. Sách sử chép lại rằng, vào năm 1904, người nông dân xưa vùng bán đảo Cà Mau gọi là năm Thìn bão lụt, có một cơn bão lớn ập từ biển Đông vào đã quét rừng tràm sập với diện tích bao nhiêu chục ngàn héc-ta cũng không ai còn nhớ. Chỉ biết rằng rừng tràm U Minh Hạ thu hẹp dần về hướng Cà Mau. Ngày xưa U Minh Hạ kéo dài lên tận Bạc Liêu, sau giải phóng năm 1975, dân các huyện Hồng Dân, Phước Long, Giá Rai của Bạc Liêu vẫn còn đi tìm được những cây tràm bị bão làm sập vùi dưới đất, gọi là đi tìm tràm lụt.

Nhưng nếu tính ra cơn cuồng nộ của thiên nhiên vào năm Thìn ấy vẫn thua xa vụ cháy rừng suốt 3 năm kể trên. Người ta kể rằng, ngọn lửa khởi phát vào mùa khô mà đến khi sa mưa mới tắt, mặc dù có lâm trường, các xã rồi huyện, tỉnh tập trung chữa cháy rất quyết liệt.

Hơn 100.000 ha rừng nguyên sinh bị cháy, chỉ còn lại hơn 2.500 ha của khu Vồ Dơi. Dân Cà Mau đau đớn như mình vừa để tuột khỏi tay một thứ quý giá. Ngay từ thời khẩn hoang lập nghiệp, dân tứ xứ trôi dạt về Cà Mau đã vào rừng U Minh Hạ mà sinh sống. Rừng với sự giàu có về sản vật, như một bầu sữa căng tràn, đã cưu mang, nuôi nấng biết bao cảnh đời phiêu bạt. Xã hội nghề rừng hình thành với nếp sống dựa vào thiên nhiên mà sinh tồn. Ở đó nẩy nở, xuất hiện bao ngành nghề, bao làng nghề đặc biệt của rừng U Minh như nghề ăn ong, nghề đốn củi, khai thác gỗ tràm, nghề bứt dây choại, nghề đặt trúm, thả câu, giăng lưới… Rừng đã chứng tỏ một bản hình vạm vỡ là 1 trong 2 biểu tượng rừng vàng, biển bạc của Cà Mau.

Hiện tại, U Minh Hạ chỉ còn hơn 30.000 ha rừng tràm, chủ yếu là rừng trồng mới. Tôi quyết tâm đi đến cho bằng được khu Vồ Dơi - nơi còn sót lại hơn 2.500 ha rừng tràm nguyên sinh cuối cùng của U Minh Hạ. Khu Vồ Dơi này thuộc lâm phần của Vườn Quốc gia U Minh Hạ. Chúng tôi đến vào một buổi trưa nóng bức, vậy mà khi xe vào đến địa phận vườn quốc gia rồi thì cảm giác như tâm hồn dịu nhẹ, nắng bớt chói chang, không gian chan hoà màu xanh mát lành. Hai bên đường là rừng tràm bạt ngàn, ngó đến mút tầm mắt. Tôi nghe thoang thoảng mùi bông tràm rồi chợt nhớ bài hát: “U Minh bốn bề là tràm, chẳng biết tháng nào nở hoa, mà hương thơm dường như suốt mùa…”.

Trụ sở Ban Quản lý Vườn Quốc gia U Minh Hạ trông khá bề thế và sung túc, nằm lọt thỏm giữa cánh rừng tràm bát ngát. Trần Công Hoằng, Phó giám đốc phụ trách và Lê Thanh Dũng, Phó giám đốc Vườn Quốc gia tiếp tôi và đoàn. Đoàn gồm có tôi, Nguyễn Chiến, Tổng biên tập báo Cà Mau và 3-4 nhân viên của anh.

Ban Quản lý báo cho chúng tôi biết rằng, Vườn Quốc gia U Minh Hạ là 1 trong 2 vườn quốc gia của tỉnh Cà Mau theo Quyết định 112/QĐ-TTg ngày 20/1/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển khu bảo tồn thiên nhiên Vồ Dơi thành Vườn Quốc gia U Minh Hạ và được UNESCO công nhận 1 trong 3 vùng lõi Khu Dự trữ sinh quyển thế giới Mũi Cà Mau. Theo đó, vườn quốc gia này quản lý 8527,8 ha, phân chia làm 3 phân khu chức năng: phân khu dịch vụ hành chính, diện tích 743,6 ha; phân khu phục hồi sinh thái, diện tích 5190,5 ha; phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, diện tích 2593,7 ha.

Hoằng nói với chúng tôi, 15 năm qua, từ khi thành lập, anh em Ban Quản lý Vườn Quốc gia đã sống trong rừng, chịu đựng nhiều gian khổ để thực hiện những cam kết quốc tế và những nhiệm vụ mà Chính phủ và UBND tỉnh Cà Mau giao cho. Đó là bảo tồn các giá trị về cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái và đa dạng sinh học của hệ sinh thái đất ngập nước đặc thù, rừng tràm trên đất than bùn. Bảo tồn và tái tạo nguồn gen của các loài động vật quý hiếm, cung cấp nguồn giống sinh vật tự nhiên cho toàn vùng.

Để cho nhà văn tiếp cận thực tế, Ban Quản lý Vườn Quốc gia đã cử Phó giám đốc Dũng đưa chúng tôi xâm nhập rừng tràm U Minh Hạ.

Nếu ngày xưa vào rừng phải lội rừng hoặc chèo xuồng ba lá, sang hơn một tí thì đi xuồng máy, còn nay chúng tôi vào rừng bằng xe ô-tô, phong thái giống như đi dạo chơi ở một thảo cầm viên nào đó chứ không phải như ngày xưa cực khổ. Con đê bao ví mấy ngàn héc-ta rừng để giữ nước, phòng cháy rừng nay biến thành một con lộ nhựa vành đai và xẻ giữa ruột rừng là những con kênh, mà bờ kênh bây giờ cũng biến thành lộ xe. Xe chúng tôi đi trên lộ mà như chen vào giữa vườn cam, dâu, chuối già, chuối xiêm và các loại cây ăn trái khác. Vườn Quốc gia U Minh Hạ đã biến đất phần trăm không trồng tràm thành những vườn cây ăn trái sum suê. Nhìn cảnh tượng “không sao chịu nổi”, tôi yêu cầu dừng xe trên một đoạn đường để xem cam trĩu quả và giao đu đụng nóc xe. Tôi ước tính mỗi cây cam có thể thu hàng trăm ký trái. Và “con đường cam” chạy dài đến mấy cây số. Mấy chục năm trước có lẽ ai giàu tưởng tượng nhất cũng không thể nào hình dung nổi có một vườn cây ăn trái mọc giữa ruột rừng U Minh Hạ như bây giờ. Đất rừng U Minh, với tầng than bùn dày cả mét quả là lý tưởng cho các loài cây ăn trái sinh sống.

Giáp với đất vườn quốc gia là đất của các hộ cá thể, nhận giao khoán đất rừng cách đây hơn 20 năm với quy định trồng và giữ rừng, đồng thời có để lại phần trăm đất lâm phần để các hộ trồng tỉa, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi khác mà sinh sống. Tôi nhớ hồi đó, báo Tuổi Trẻ viết bài và Nhà văn Võ Đắc Danh đã làm một bộ phim tài liệu rất thiết tha kêu cứu rằng U Minh đang đói.

Những nhận định “vội vàng” của họ gây nên sự giận dữ của chính quyền địa phương. Tôi xem lại những thước phim được làm cách đây mười mấy năm thì thấy 5-6 nhân vật mà ê-kíp làm phim tiếp cận là đối tượng nhận khoán đất rừng nhưng thuộc các thành phần: đối tượng chính sách, người có công, người nghèo không đất…, tựu trung họ là giai tầng nghèo sát đáy xã hội. Họ đưa gia đình, vợ con vào rừng cặm đất sinh sống, ngoài mấy cái xoong chảo, vài ký gạo và một chiếc xuồng ba lá thì không còn tài sản nào nữa. Trong khi đó, Nhà nước không đầu tư, cũng không cho vay. Muốn giữ được rừng thì phải phát triển được kinh tế hộ gia đình mà trụ lại, mà chờ đến ngày rừng lớn để chia lãi với Nhà nước. Nghĩa là muốn làm được điều ấy thì cần một số vốn lớn để đào kênh bao ngạn, chống cháy rừng kết hợp với phát triển cá đồng và các loài thuỷ đặc sản của U Minh…

Thế nên, vì nghèo quá họ tiếp tục vào rừng khai thác tràm non mà sinh sống hoặc đi ăn ong vào mùa khô rồi gây ra cảnh cháy rừng. Có hộ chịu không nổi, phải bán mảnh ruộng Nhà nước giao cho người khác.

Thực trạng rừng U Minh Hạ lúc đó, các cơ quan thông tin đại chúng nhìn rất bi quan. Thế mà giờ đây, nhìn chung các hộ nhận đất rừng ngoài phạm vi Vườn Quốc gia U Minh Hạ và trong hơn 20.000 ha rừng tràm U Minh Hạ của Cà Mau, đời sống kinh tế rất vững vàng. Nhà nào cũng thu nhập vài chục đến vài trăm triệu đồng nhờ vào việc tận dụng đất phần trăm được giao để trồng lúa, trồng cây ăn trái, nuôi cá đồng. Nhiều hộ đang khai thác gỗ tràm được chia phần với Nhà nước. Đời sống dân U Minh Hạ trở lại vững vàng, sung túc không thua gì các vùng xổ nước mặn vào nuôi tôm ở Cà Mau.

Xe dừng lại các chốt kiểm lâm rồi vào chơi những lán trại nhỏ mà khang trang, mát rượi. Anh em kiểm lâm của chốt ai cũng vui, đãi chúng tôi những món cây nhà lá vườn mà họ trồng để cải thiện như mía, chuối, ổi, dâu, khóm…

Chúng tôi cũng được đưa vào xem khu bảo vệ nghiêm ngặt, đó là hơn 2.500 ha rừng nguyên thuỷ cuối cùng còn sót lại. Tôi sững sờ trước vẻ đẹp của rừng. Tràm to cả ôm người, mọc giăng giăng, xen lẫn với dây choại, mướp, mật cật. Dưới chân rừng, dưới các dòng kênh là bông súng đồng nở hoa tím ngắt. Một bạn trẻ trong đoàn nhìn thấy đàn khỉ leo trên ngọn cây và la lên chói lói. Dũng, Phó giám đốc Vườn Quốc gia nói với tôi: “Hiện tại do rừng được bảo vệ tốt nên động vật rừng đã phục hồi và phát triển nhanh như khỉ, heo rừng, nai. Có bữa chúng đi ăn vào tận các chốt giữ rừng. Khỉ thì nhiều, còn nai, heo rừng mỗi loại có đến hàng ngàn cá thể. Ngoài ra, ong mật, dơi quạ, diệc mốc, diệc lửa cũng phát triển nhiều trong rừng. Dưới chân rừng thì kỳ đà, trăn gấm, lươn, rùa và cá đồng cũng sinh sôi mỗi năm nhiều hơn”.

Buổi trưa, vườn quốc gia làm một bữa cơm cây nhà lá vườn đãi khách quý. Bữa cơm dọn ra trong một khu lán trại giữa rừng. Trên là tràm, dưới là nước đỏ U Minh. Và cá lóc đồng táp bôm bốp trước mặt như đón chào khách. Bữa cơm dọn ra gồm các món: cá trê vàng to cỡ bắp tay, cá rô mề lớn hơn bàn tay em bé nướng trui, canh chua cơm mẻ lươn, cá sặt bướm kho sả, rắn kho nước dừa và nấu cháo đậu xanh. Còn rau rừng thì rất nhiều loại, có những thứ tôi chưa từng biết. Tôi gắp một miếng cá trê vàng nướng to rồi gói cùng nhiều loại rau rừng và cho vào miệng, nghe vị béo, ngọt đến tận xương tuỷ. Sản vật U Minh quả tuyệt vời.

Vâng, rừng U Minh đã từng tuyệt vời, từng hào phóng như một bà mẹ nhân từ suốt hàng trăm năm qua. Nó đã từng dung dưỡng, nuôi nấng những thế hệ đầu tiên đi khai hoang về Cà Mau để khẩn hoang lập nghiệp. Nó đã từng che chở, nuôi nấng người Cà Mau đi qua 2 cuộc kháng chiến đầy gian khổ hy sinh, để rừng Cà Mau trở thành ký ức bồi hồi, anh dũng trong lòng người Cà Mau qua nhiều thế hệ.

Giờ đây, về rừng U Minh, thấy rừng tràm phát triển trở lại, trong lòng tôi chợt vui, chợt mừng. Mừng không hẳn vì Vườn Quốc gia U Minh Hạ thực hiện được nhiệm vụ của Chính phủ, UBND tỉnh Cà Mau giao cho và thực hiện được những cam kết quốc tế…, mà mừng vì một phần máu thịt của Cà Mau được giữ lại để hun đúc, nuôi nấng tâm hồn người Cà Mau./.

 

Phan Trung Nghĩa

 

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài 2: Bước chuyển mình của đô thị hoá nông thôn

Khác với sự trỗi dậy mạnh mẽ của các đô thị động lực, như TP Cà Mau, Sông Ðốc và Năm Căn, những làng quê, nơi mà quá trình đô thị hoá đang diễn ra một cách lặng lẽ lại trở thành nơi lý tưởng, đáng sống, ước mơ của nhiều người. Cà Mau, từ một bức tranh tưởng chừng đơn điệu, với ruộng lúa, ao tôm, cánh đồng hoa màu và những con rạch hiền hoà, nay khoác lên mình diện mạo mới, hiện đại hơn, thuận tiện hơn, nhưng vẫn giữ được bản sắc miền Tây sông nước.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài 3: Giải mã “điểm nghẽn” để khơi thông tiềm năng

Tốc độ đô thị hoá của Cà Mau tăng trung bình 1,3%/năm, phản ánh sức hút và tiềm năng nội tại. Tuy nhiên, con số này vẫn chưa tương xứng với tiềm lực vốn có và còn cách biệt so với khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Quá trình đô thị hoá tại Cà Mau vẫn đang đối diện với những nút thắt cần tháo gỡ.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh

Tỉnh Cà Mau đang kiến tạo một nền tảng vững chắc để đô thị hoá trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Ðến cuối năm 2024, tỷ lệ đô thị hoá của tỉnh đạt 33,04%, với 22 đô thị, cao hơn mức trung bình của đồng bằng sông Cửu Long (32,0%) và vượt một số tỉnh lân cận, như Vĩnh Long (28,7%), Hậu Giang (30,5%)... Với TP Cà Mau, Năm Căn và Sông Ðốc làm tam giác động lực, tỉnh không chỉ mở rộng không gian đô thị mà còn tạo sức bật kinh tế toàn diện. Không chạy theo đô thị hoá ồ ạt, tỉnh tập trung xây dựng nền tảng hạ tầng vững chắc, phát huy lợi thế kinh tế biển, logistics và dịch vụ thương mại để trở thành điểm sáng mới của vùng Tây Nam Bộ.

Khởi nghiệp “xanh” - Xu hướng phát triển bền vững - Bài cuối: Khơi thông dòng chảy

Khởi nghiệp dựa vào tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng tài nguyên bản địa của địa phương là một lợi thế. Tuy nhiên, nó cũng có nhiều thách thức cho hoạt động khởi nghiệp nói chung và khởi nghiệp “xanh” nói riêng của tỉnh. Ðể nâng tầm khởi nghiệp “xanh”, Cà Mau đang cần những chính sách hỗ trợ từ Chính phủ. Ðịa phương cũng cần chú trọng hơn đến phát triển kinh tế bền vững và hỗ trợ các mô hình khởi nghiệp “xanh”, cũng như các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, đào tạo, phát triển cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Khởi nghiệp “xanh” - Xu hướng phát triển bền vững - Bài 2: "Ghi điểm" trên "sân nhà"

Khởi nghiệp “xanh” tại Cà Mau mang đến động lực, truyền cảm hứng từ những câu chuyện thực tế của những bạn trẻ đầy nhiệt huyết, mạnh dạn tận dụng sân nhà để phát huy giá trị sản phẩm kinh doanh, gợi mở nhiều cơ hội trong tiến trình khởi nghiệp.

Khởi nghiệp “xanh” - Xu hướng phát triển bền vững

Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đã trở thành xu thế chung của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là chủ trương lớn của Ðảng. Nghị quyết 52/NQ-TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị đã xác định rõ vai trò của khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, trong đó doanh nghiệp là trọng tâm của quá trình đổi mới sáng tạo quốc gia.

Hướng tới chính quyền số toàn diện - Bài cuối: Xây dựng nền hành chính kiến tạo, phục vụ

Nếu chuyển đổi số (CÐS) trong thủ tục hành chính (TTHC) là bước đột phá giúp cắt giảm phiền hà, tiết kiệm thời gian cho người dân và doanh nghiệp, thì xây dựng chính quyền thông minh lại mang tầm vóc lớn hơn. Ðó không chỉ là việc đưa công nghệ vào bộ máy quản lý Nhà nước, mà còn là một cuộc chuyển đổi toàn diện về tư duy điều hành, phương thức hoạt động và tinh thần phục vụ. Không còn cảnh văn phòng hành chính đầy ắp hồ sơ, giấy tờ, chính quyền số hôm nay đang định hình một mô hình làm việc mới: liên thông, minh bạch, gần gũi và lấy sự hài lòng của người dân làm trung tâm.

Hướng tới chính quyền số toàn diện

Hai năm liền (2023-2024), Cà Mau dẫn đầu cả nước về chỉ số phục vụ người dân và doanh nghiệp, đây là dấu ấn nổi bật của tỉnh trong công tác cải cách hành chính (CCHC). Ðể có được thành tựu này, tỉnh không chỉ đơn giản hoá thủ tục mà còn đổi mới mạnh mẽ phương thức phục vụ. Hệ thống một cửa liên thông được triển khai đồng bộ từ cấp tỉnh đến cấp xã, giúp rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, nâng cao tính minh bạch, hiệu quả, sự hài lòng trong dân.

Tự hào vùng đất Tây Nam - Bài cuối: Biển - Dòng chảy phồn vinh

Ðịa bàn biên giới biển toàn vùng Tây Nam trải dài hơn 700 km, chiếm 1/5 tổng chiều dài bờ biển của cả nước, không chỉ là tuyến phòng thủ chiến lược mà còn là nguồn sống của hàng triệu ngư dân. Với hệ sinh thái phong phú, vùng biển này mang trong mình tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế biển, đóng góp quan trọng vào công cuộc dựng xây đất nước.

Tự hào vùng đất Tây Nam - Bài 3: Hồi sinh Ba Chúc

Cách nay 50 năm, trong khi các địa phương trong cả nước đang bắt tay kiến thiết quê hương sau đại thắng mùa Xuân 1975 thì Nhân dân Ba Chúc lại mang thêm trên mình những vết thương của nạn thảm sát diệt chủng Pol Pot. Nếu so sánh xuất phát điểm của vùng đất thanh bình vươn lên sau chiến tranh thì Ba Chúc khởi điểm sau các vùng đất khác 10 năm, với nền tảng ban đầu: đất đai cằn cỗi, nhà cửa xơ xác, cuộc sống của người dân bấp bênh giữa đói nghèo và ký ức đau thương. Trở lại Ba Chúc hôm nay là thị trấn sầm uất của huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.