ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 1-6-25 08:17:45
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Trung đội nữ pháo binh Cái Nước diệt đồn Rạch Chèo

Báo Cà Mau (CMO) Ra đời mấy năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, Trung đội nữ pháo binh Cái Nước đã làm rạng rỡ truyền thống hào hùng. Những chiến công còn nhớ mãi trên quê hương, gắn liền với đơn vị của những người con gái thời ấy. Trong nhiều trận đánh phối hợp, trận diệt đồn Rạch Chèo được xem là trận phối hợp tuyệt đẹp.

Đồn Rạch Chèo đóng trên tuyến sông Bảy Háp, ngay ngã ba Kinh Năm thẳng ra. Quân giặc gồm một đại đội bảo an, một trung đội thám báo do tên Đại uý Phú khét tiếng gian ác làm trưởng đồn. Chúng trang bị súng cối, đại liên, máy bộ đàm liên lạc, công sự xây ngầm kiên cố hơn các đồn khác. Địa hình rừng chồi, cây mắm, đước chen dày đặc. Đất sình lầy, nước lớn là ngập bãi, rất khó cho ta đào công sự. Bọn chúng dọn cây trống quanh đồn cả trăm mét, đèn pha sáng đêm…

Trung đội nữ pháo binh huyện Cái Nước, đơn vị đã góp phần quan trọng trong các trận phá tuyến phòng thủ Bình Hưng và vành đai bảo vệ tỉnh lỵ An Xuyên của địch (1973-1975).                Ảnh: VÕ AN KHÁNH.

Trước đây, đơn vị tỉnh về đánh đồn Rạch Chèo nhiều trận, nhưng bọn giặc ngoan cố, chưa bỏ đồn.

Thời điểm đầu năm 1975, toàn bộ bọn giặc ở đâu cũng suy yếu, không còn đổ quân càn quét, chi viện. Sau khi thực địa về, 3 đơn vị vũ trang huyện Cái Nước hạ quyết tâm sẽ bao vây đồn Rạch Chèo 7 ngày đêm, tiêu diệt từng bộ phận của giặc. Lúc 18 giờ tối ngày 8/1/1975, các đơn vị hành quân ra trận đầu năm.

Đại đội 1 chịu hướng xuống Gò Công.

Đại đội 2 chịu mũi lên Đồng Cùng.

Trung đội pháo nữ và Trung đội du kích xã Tân Hưng Tây chịu mũi Kinh Năm ra sông Bảy Háp.

Một sự cố đáng tiếc xảy ra: Khi Đại đội 1 đưa quân ra vị trí, bất ngờ lọt vô vòng phục kích của bọn thám báo. 4 đồng chí đã hy sinh, giặc đem về đồn, ta không lấy được tử thi. Các đồng chí Đại đội 1 lùi ra phía sau - cách nơi đụng trận đoạn ngắn, dừng lại chốt công sự để kịp giờ hiệp đồng nổ súng.

Đúng 2 giờ sáng ngày 9/1/1975, lăng-xà-bom của đơn vị nữ bắt đầu điểm hoả vào đồn Rạch Chèo. Các mũi cùng nổ súng, chia lửa quyết liệt. Vào trận, đơn vị nữ đánh 3 quả pháo lăng-xà-bom, lại chờ gần sáng ngắm đúng mục tiêu bắn thêm 2 quả nữa rồi đưa pháo vào tuyến trong. Biết được cự ly xa, Chín Dung đề nghị đưa công sự lên gần vòng rào gai của giặc để bắn vào đồn cho chính xác.

Giặc phát hiện nơi đặt hoả lực của ta, chúng cho bọn thám báo bò ra định đánh vu hồi. Nhưng ta biết trước. Khi giặc tới, tổ du kích chận đầu, đánh mìn nổ tung. Chúng hoảng chạy trở lại và không dám bò ra nữa.

Sự chi viện cho quân giặc đồn Rạch Chèo lúc này còn pháo 105 ly từ Bình Hưng, Đồng Cùng và tiểu pháo hạm Năm Căn. Đêm thứ hai rồi thứ ba, cứ mỗi đêm đơn vị pháo nữ bắn cầm chừng 5 quả lăng-xà-bom vào đồn cho giặc bắn trả lại mau hết đạn của chúng. Sang ngày thứ ba, quân giặc bắn trả yếu ớt… Qua 3 ngày đêm nằm công sự vây đồn, pháo giặc nổ cầm canh xung quanh để trấn an cho bọn lính đồn. Mỗi lần pháo giặc bắn, các chiến sĩ ta phải xuống công sự - lúc nước lớn ngập sát nắp hầm, chỉ đưa chót mũi lên để thở… Bé Hai trao đổi với Bảy Tuyết, Chín Dung, Năm Hiền:

- Mình đánh lăng-xà-bom ban ngày mới chính xác, giặc mau chạy, rút ngắn thời gian cho chiến sĩ ta đỡ vất vả, mỏi mệt.

Nghe có lý có tình, các đồng chí trong Ban Chỉ huy Trung đội nữ cũng đồng ý. Bé Hai liền đến Ban Chỉ huy tiền phương gặp đồng chí Sáu Dũng, Huyện đội trưởng, đề xuất ý kiến của Trung đội pháo nữ… Qua vài giây, đồng chí Sáu Dũng hỏi:

- Phương án đánh thế nào, đồng chí trình bày tôi nghe!

Bé Hai được cơ hội, nhưng bằng trí tưởng tượng chứ chưa có sơ đồ. Trước hết, Bé Hai báo cáo tình hình sức khoẻ của chiến sĩ qua 3 ngày ngoi hầm nước, gương mặt người nào cũng hốc hác, mệt nhoài. Chỉ chọn cách đánh lăng-xà-bom ngày đêm liên tục mới rút ngắn thời gian. Nhưng binh hoả lực phải đáp ứng yêu cầu. Ban Chỉ huy tiền phương tăng cường cho tổ lăng-xà-bom 6 đồng chí du kích có sức khoẻ, tình nguyện bảo vệ trận địa.Về hoả lực, tăng thêm 10 quả lăng-xà-bom, 2 quả mìn Claymo, 100 viên đạn đại liên cho mũi Đại đội 2, bổ sung thêm 100 viên đạn M16 cho 2 tổ bảo vệ lăng-xà-bom… Sau khi nghe phương án và yêu cầu của đồng chí Bé Hai, Huyện đội trưởng Sáu Dũng hỏi:

- Ai trực tiếp đánh lăng-xà-bom ban ngày?

- Tôi! Được không anh Sáu? Bé Hai rất tự tin, chẳng ngần ngại nhận lãnh nhiệm vụ về mình.

Và Ban Chỉ huy tiền phương, trực tiếp là Huyện đội trưởng quyết định, đã đồng ý phương án của Trung đội pháo nữ.

Đêm thứ tư, Bảy Tuyết đưa lăng-xà-bom ra đánh vào đồn 5 quả, kéo dài đến 4 giờ sáng. Bé Hai và Chín Dung chở 10 quả lăng-xà-bom ra thay cho Bảy Tuyết. Sáng nay, đồng ý để cho lăng-xà-bom đánh ban ngày, Ban Chỉ huy tiền phương rất lo vì chiến thuật này còn mới, Trung đội pháo nữ chưa đánh lần nào. Ban Chỉ huy tiền phương phân công đồng chí Phong mang máy bộ đàm ở tại công sự hoả lực lăng-xà-bom, phòng bất trắc báo cáo kịp thời.

Đúng 6 giờ sáng ngày 12/1/1975, quả lăng-xà-bom đầu tiên nổ vào đồn Rạch Chèo ban ngày, đã làm cho giặc hốt hoảng. Dù ngoan cố, hung hăng nhưng đến giờ này bọn chúng nghĩ rằng quân chủ lực của ta về đánh. Chúng cầu cứu, xin tiếp viện, nhưng chi khu, tiểu khu bất lực. Tỉnh trưởng An Xuyên hà hơi bằng chiếc máy bay trinh sát L19 xuống quần đảo, phóng pháo, chỉ điểm cho các cụm pháo từ xa đã bắn cầm canh mấy ngày nay. Pháo giặc nổ dữ dội vào đội hình ta, cách công sự lăng-xà-bom 20 m là gần nhất. Nhưng không hề lay chuyển, cứ qua đợt pháo của giặc thì các đồng chí Trung đội nữ điểm hoả lăng-xà-bom, các mũi đại liên, tiểu liên của Đại đội 1, Đại đội 2 cùng chia lửa với pháo như lời hẹn, nổ rộ vào đồn.

Từ sáng đến 16 giờ chiều, đơn vị pháo nữ đã bắn 9 quả lăng-xà-bom vào đồn Rạch Chèo, chỉ còn 1 quả. Bé Hai cứ ngắm tới ngắm lui sao cho ngay cây ăng-ten điện đài, vì xác định khi nào đứt liên lạc thì chúng mới đầu hàng. Ta đã bắn gần 25 quả rồi, còn quả cuối cùng này, nếu bắn không trúng ăng-ten đồn thì phải chịu đêm nay và ngày mai hoặc đến thứ Bảy…

Bé Hai suy nghĩ mãi cho đến 17 giờ chiều mà không dám điểm hoả. Ánh nắng chiều còn chói chang như soi rọi cả “đôi bên”, im lặng như chờ đợi. Bé Hai kêu Chín Dung kiểm tra lại mục tiêu “chắc ăn chưa?”, gọi tổ du kích lại ngắm tiếp “mục tiêu là cây ăng-ten, ngay chưa?”. Bắn không trúng chắc tiếc lắm! Như cây gai cần phải nhổ… Xem đồng hồ, 18 giờ kém 15 phút. Quả pháo mang đầy hy vọng cuối cùng được Bé Hai điểm hoả bay vào đồn. Một cụm khói lớn bốc lên rồi tan dần, mọi người không còn nhìn thấy cây ăng-ten đồn Rạch Chèo nữa. Nỗi vui mừng của chị em Trung đội pháo nữ không sao kể xiết. Đồng đội các mũi cùng reo lên:

- Gãy ăng-ten rồi! Gãy ăng-ten rồi!

Đồng chí Bí thư Huyện uỷ Cái Nước - chú Tư Vân, không rõ đến Ban Chỉ huy tiền phương lúc nào, cũng tận mắt chứng kiến.

Chú Tư, tức đồng chí Nguyễn Văn Để, điện ra hỏi:

- Quả pháo mới nổ, ai bắn vậy?

Chú gởi lời khen xạ thủ vừa bắn gãy ăng-ten đồn.

Lãnh đạo, chỉ huy nhận định đêm nay quân giặc sẽ chạy bỏ đồn Rạch Chèo. Các đơn vị chuyển phương án đánh “bò lạc”. Năm Hiền chuẩn bị ra đổi trực cho Bé Hai và Chín Dung, thì có lệnh triển khai đi chiếm đồn.

Tin chiến thắng lan nhanh khắp xã Tân Hưng Tây, chỉ sau vài giờ, lực lượng dân công cùng bộ đội, tốp đi chặn bắt tù binh, tốp chở chiến lợi phẩm… Huyện uỷ Cái Nước phát động Nhân dân bao vây bắt “bò lạc” và bộ phận an táng chở 4 liệt sĩ đã hy sinh lúc ra trận, đưa về nghĩa trang…

Quân giặc bỏ đồn bò ra ngoài, đụng lực lượng ta đang truy kích, chúng chạy tán loạn vào khu rừng 388 - khu rừng mắm bạt ngàn của xã Tân Hưng Tây. Cuộc bao ví bắt tù binh diễn ra sôi động một vùng. Cùng các đơn vị, chị em Trung đội pháo nữ cũng tay súng lăm lăm, băng sình lầy rượt đuổi, gặp cảnh vợ lính giặc lạc trong rừng khóc la inh ỏi…

Ra trận đầu năm, chỉ 4 ngày, 5 đêm, 3 đơn vị vũ trang huyện Cái Nước đã dứt điểm đồn Rạch Chèo, bắt sống 39 tên, có tên Đại uý Phú Trưởng đồn, 2 thiếu uý, 1 chuẩn uý, 4 trung sĩ, 5 hạ sĩ… Thu 48 súng, có 2 khẩu cối 60 ly, 2 đại liên, 3 khẩu M79, 4 máy PRC25 và 50.000 viên đạn các loại.

Với khí thế hừng hực trên chiến trường, Trung đội nữ pháo binh Cái Nước phối hợp cùng các đơn vị tiếp tục bao vây, tấn công, bứt rút Chi khu Giá Ngựa và nhiều đồn bót giặc trên tuyến sông Bảy Háp, góp phần vào chiến công của huyện nhà đến ngày toàn thắng 30/4/1975.

Nguyễn Minh

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.