ĐT: 0939.923988
Thứ tư, 16-4-25 21:59:45
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Trung đội nữ pháo binh Cái Nước diệt đồn Rạch Chèo

Báo Cà Mau (CMO) Ra đời mấy năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, Trung đội nữ pháo binh Cái Nước đã làm rạng rỡ truyền thống hào hùng. Những chiến công còn nhớ mãi trên quê hương, gắn liền với đơn vị của những người con gái thời ấy. Trong nhiều trận đánh phối hợp, trận diệt đồn Rạch Chèo được xem là trận phối hợp tuyệt đẹp.

Đồn Rạch Chèo đóng trên tuyến sông Bảy Háp, ngay ngã ba Kinh Năm thẳng ra. Quân giặc gồm một đại đội bảo an, một trung đội thám báo do tên Đại uý Phú khét tiếng gian ác làm trưởng đồn. Chúng trang bị súng cối, đại liên, máy bộ đàm liên lạc, công sự xây ngầm kiên cố hơn các đồn khác. Địa hình rừng chồi, cây mắm, đước chen dày đặc. Đất sình lầy, nước lớn là ngập bãi, rất khó cho ta đào công sự. Bọn chúng dọn cây trống quanh đồn cả trăm mét, đèn pha sáng đêm…

Trung đội nữ pháo binh huyện Cái Nước, đơn vị đã góp phần quan trọng trong các trận phá tuyến phòng thủ Bình Hưng và vành đai bảo vệ tỉnh lỵ An Xuyên của địch (1973-1975).                Ảnh: VÕ AN KHÁNH.

Trước đây, đơn vị tỉnh về đánh đồn Rạch Chèo nhiều trận, nhưng bọn giặc ngoan cố, chưa bỏ đồn.

Thời điểm đầu năm 1975, toàn bộ bọn giặc ở đâu cũng suy yếu, không còn đổ quân càn quét, chi viện. Sau khi thực địa về, 3 đơn vị vũ trang huyện Cái Nước hạ quyết tâm sẽ bao vây đồn Rạch Chèo 7 ngày đêm, tiêu diệt từng bộ phận của giặc. Lúc 18 giờ tối ngày 8/1/1975, các đơn vị hành quân ra trận đầu năm.

Đại đội 1 chịu hướng xuống Gò Công.

Đại đội 2 chịu mũi lên Đồng Cùng.

Trung đội pháo nữ và Trung đội du kích xã Tân Hưng Tây chịu mũi Kinh Năm ra sông Bảy Háp.

Một sự cố đáng tiếc xảy ra: Khi Đại đội 1 đưa quân ra vị trí, bất ngờ lọt vô vòng phục kích của bọn thám báo. 4 đồng chí đã hy sinh, giặc đem về đồn, ta không lấy được tử thi. Các đồng chí Đại đội 1 lùi ra phía sau - cách nơi đụng trận đoạn ngắn, dừng lại chốt công sự để kịp giờ hiệp đồng nổ súng.

Đúng 2 giờ sáng ngày 9/1/1975, lăng-xà-bom của đơn vị nữ bắt đầu điểm hoả vào đồn Rạch Chèo. Các mũi cùng nổ súng, chia lửa quyết liệt. Vào trận, đơn vị nữ đánh 3 quả pháo lăng-xà-bom, lại chờ gần sáng ngắm đúng mục tiêu bắn thêm 2 quả nữa rồi đưa pháo vào tuyến trong. Biết được cự ly xa, Chín Dung đề nghị đưa công sự lên gần vòng rào gai của giặc để bắn vào đồn cho chính xác.

Giặc phát hiện nơi đặt hoả lực của ta, chúng cho bọn thám báo bò ra định đánh vu hồi. Nhưng ta biết trước. Khi giặc tới, tổ du kích chận đầu, đánh mìn nổ tung. Chúng hoảng chạy trở lại và không dám bò ra nữa.

Sự chi viện cho quân giặc đồn Rạch Chèo lúc này còn pháo 105 ly từ Bình Hưng, Đồng Cùng và tiểu pháo hạm Năm Căn. Đêm thứ hai rồi thứ ba, cứ mỗi đêm đơn vị pháo nữ bắn cầm chừng 5 quả lăng-xà-bom vào đồn cho giặc bắn trả lại mau hết đạn của chúng. Sang ngày thứ ba, quân giặc bắn trả yếu ớt… Qua 3 ngày đêm nằm công sự vây đồn, pháo giặc nổ cầm canh xung quanh để trấn an cho bọn lính đồn. Mỗi lần pháo giặc bắn, các chiến sĩ ta phải xuống công sự - lúc nước lớn ngập sát nắp hầm, chỉ đưa chót mũi lên để thở… Bé Hai trao đổi với Bảy Tuyết, Chín Dung, Năm Hiền:

- Mình đánh lăng-xà-bom ban ngày mới chính xác, giặc mau chạy, rút ngắn thời gian cho chiến sĩ ta đỡ vất vả, mỏi mệt.

Nghe có lý có tình, các đồng chí trong Ban Chỉ huy Trung đội nữ cũng đồng ý. Bé Hai liền đến Ban Chỉ huy tiền phương gặp đồng chí Sáu Dũng, Huyện đội trưởng, đề xuất ý kiến của Trung đội pháo nữ… Qua vài giây, đồng chí Sáu Dũng hỏi:

- Phương án đánh thế nào, đồng chí trình bày tôi nghe!

Bé Hai được cơ hội, nhưng bằng trí tưởng tượng chứ chưa có sơ đồ. Trước hết, Bé Hai báo cáo tình hình sức khoẻ của chiến sĩ qua 3 ngày ngoi hầm nước, gương mặt người nào cũng hốc hác, mệt nhoài. Chỉ chọn cách đánh lăng-xà-bom ngày đêm liên tục mới rút ngắn thời gian. Nhưng binh hoả lực phải đáp ứng yêu cầu. Ban Chỉ huy tiền phương tăng cường cho tổ lăng-xà-bom 6 đồng chí du kích có sức khoẻ, tình nguyện bảo vệ trận địa.Về hoả lực, tăng thêm 10 quả lăng-xà-bom, 2 quả mìn Claymo, 100 viên đạn đại liên cho mũi Đại đội 2, bổ sung thêm 100 viên đạn M16 cho 2 tổ bảo vệ lăng-xà-bom… Sau khi nghe phương án và yêu cầu của đồng chí Bé Hai, Huyện đội trưởng Sáu Dũng hỏi:

- Ai trực tiếp đánh lăng-xà-bom ban ngày?

- Tôi! Được không anh Sáu? Bé Hai rất tự tin, chẳng ngần ngại nhận lãnh nhiệm vụ về mình.

Và Ban Chỉ huy tiền phương, trực tiếp là Huyện đội trưởng quyết định, đã đồng ý phương án của Trung đội pháo nữ.

Đêm thứ tư, Bảy Tuyết đưa lăng-xà-bom ra đánh vào đồn 5 quả, kéo dài đến 4 giờ sáng. Bé Hai và Chín Dung chở 10 quả lăng-xà-bom ra thay cho Bảy Tuyết. Sáng nay, đồng ý để cho lăng-xà-bom đánh ban ngày, Ban Chỉ huy tiền phương rất lo vì chiến thuật này còn mới, Trung đội pháo nữ chưa đánh lần nào. Ban Chỉ huy tiền phương phân công đồng chí Phong mang máy bộ đàm ở tại công sự hoả lực lăng-xà-bom, phòng bất trắc báo cáo kịp thời.

Đúng 6 giờ sáng ngày 12/1/1975, quả lăng-xà-bom đầu tiên nổ vào đồn Rạch Chèo ban ngày, đã làm cho giặc hốt hoảng. Dù ngoan cố, hung hăng nhưng đến giờ này bọn chúng nghĩ rằng quân chủ lực của ta về đánh. Chúng cầu cứu, xin tiếp viện, nhưng chi khu, tiểu khu bất lực. Tỉnh trưởng An Xuyên hà hơi bằng chiếc máy bay trinh sát L19 xuống quần đảo, phóng pháo, chỉ điểm cho các cụm pháo từ xa đã bắn cầm canh mấy ngày nay. Pháo giặc nổ dữ dội vào đội hình ta, cách công sự lăng-xà-bom 20 m là gần nhất. Nhưng không hề lay chuyển, cứ qua đợt pháo của giặc thì các đồng chí Trung đội nữ điểm hoả lăng-xà-bom, các mũi đại liên, tiểu liên của Đại đội 1, Đại đội 2 cùng chia lửa với pháo như lời hẹn, nổ rộ vào đồn.

Từ sáng đến 16 giờ chiều, đơn vị pháo nữ đã bắn 9 quả lăng-xà-bom vào đồn Rạch Chèo, chỉ còn 1 quả. Bé Hai cứ ngắm tới ngắm lui sao cho ngay cây ăng-ten điện đài, vì xác định khi nào đứt liên lạc thì chúng mới đầu hàng. Ta đã bắn gần 25 quả rồi, còn quả cuối cùng này, nếu bắn không trúng ăng-ten đồn thì phải chịu đêm nay và ngày mai hoặc đến thứ Bảy…

Bé Hai suy nghĩ mãi cho đến 17 giờ chiều mà không dám điểm hoả. Ánh nắng chiều còn chói chang như soi rọi cả “đôi bên”, im lặng như chờ đợi. Bé Hai kêu Chín Dung kiểm tra lại mục tiêu “chắc ăn chưa?”, gọi tổ du kích lại ngắm tiếp “mục tiêu là cây ăng-ten, ngay chưa?”. Bắn không trúng chắc tiếc lắm! Như cây gai cần phải nhổ… Xem đồng hồ, 18 giờ kém 15 phút. Quả pháo mang đầy hy vọng cuối cùng được Bé Hai điểm hoả bay vào đồn. Một cụm khói lớn bốc lên rồi tan dần, mọi người không còn nhìn thấy cây ăng-ten đồn Rạch Chèo nữa. Nỗi vui mừng của chị em Trung đội pháo nữ không sao kể xiết. Đồng đội các mũi cùng reo lên:

- Gãy ăng-ten rồi! Gãy ăng-ten rồi!

Đồng chí Bí thư Huyện uỷ Cái Nước - chú Tư Vân, không rõ đến Ban Chỉ huy tiền phương lúc nào, cũng tận mắt chứng kiến.

Chú Tư, tức đồng chí Nguyễn Văn Để, điện ra hỏi:

- Quả pháo mới nổ, ai bắn vậy?

Chú gởi lời khen xạ thủ vừa bắn gãy ăng-ten đồn.

Lãnh đạo, chỉ huy nhận định đêm nay quân giặc sẽ chạy bỏ đồn Rạch Chèo. Các đơn vị chuyển phương án đánh “bò lạc”. Năm Hiền chuẩn bị ra đổi trực cho Bé Hai và Chín Dung, thì có lệnh triển khai đi chiếm đồn.

Tin chiến thắng lan nhanh khắp xã Tân Hưng Tây, chỉ sau vài giờ, lực lượng dân công cùng bộ đội, tốp đi chặn bắt tù binh, tốp chở chiến lợi phẩm… Huyện uỷ Cái Nước phát động Nhân dân bao vây bắt “bò lạc” và bộ phận an táng chở 4 liệt sĩ đã hy sinh lúc ra trận, đưa về nghĩa trang…

Quân giặc bỏ đồn bò ra ngoài, đụng lực lượng ta đang truy kích, chúng chạy tán loạn vào khu rừng 388 - khu rừng mắm bạt ngàn của xã Tân Hưng Tây. Cuộc bao ví bắt tù binh diễn ra sôi động một vùng. Cùng các đơn vị, chị em Trung đội pháo nữ cũng tay súng lăm lăm, băng sình lầy rượt đuổi, gặp cảnh vợ lính giặc lạc trong rừng khóc la inh ỏi…

Ra trận đầu năm, chỉ 4 ngày, 5 đêm, 3 đơn vị vũ trang huyện Cái Nước đã dứt điểm đồn Rạch Chèo, bắt sống 39 tên, có tên Đại uý Phú Trưởng đồn, 2 thiếu uý, 1 chuẩn uý, 4 trung sĩ, 5 hạ sĩ… Thu 48 súng, có 2 khẩu cối 60 ly, 2 đại liên, 3 khẩu M79, 4 máy PRC25 và 50.000 viên đạn các loại.

Với khí thế hừng hực trên chiến trường, Trung đội nữ pháo binh Cái Nước phối hợp cùng các đơn vị tiếp tục bao vây, tấn công, bứt rút Chi khu Giá Ngựa và nhiều đồn bót giặc trên tuyến sông Bảy Háp, góp phần vào chiến công của huyện nhà đến ngày toàn thắng 30/4/1975.

Nguyễn Minh

Trang sử Cà Mau thời kháng chiến năm 1973

Sau Hiệp định Paris năm 1973, về mặt đấu tranh công khai, Ban Liên hợp quân sự 4 bên khu vực 4 (Quân khu 9), do đồng chí Hoàng Hà làm Trưởng ban, đồng chí Phạm Văn Liêm làm Phó ban, Tổ liên hợp Cà Mau do đồng chí Tống Kỳ Hiệp và đồng chí Trịnh Thành Kế phụ trách đã đấu tranh chống lại sự vi phạm Hiệp định của địch trong khu vực. Ta buộc địch công nhận vùng tự do của ta ở Cà Mau và đã thực hiện việc trao trả tù binh ở Kinh Ba, xã Quách Phẩm, huyện Ngọc Hiển (Tư Kháng), Ðầm Dơi ngày nay.

Về “Đất thép thành đồng”

Thiết thực các hoạt động chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025), kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931-26/3/2025), ngày 30/3, đồng chí Nguyễn Hồ Hải, Bí thư Tỉnh uỷ, cùng đoàn cán bộ Tỉnh đoàn đã có chuyến hành trình giáo dục truyền thống, về nguồn tại "Ðất thép thành đồng": Củ Chi - TP Hồ Chí Minh.

“Chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú - Dấu xưa một thời

Trong hành trình tìm về quá khứ, có những việc tuy ngoài sách sử, nhưng lại đậm sâu trong ký ức nhiều người. Ðó cũng là câu chuyện về “chùa Cộng sản” ở làng Thạnh Phú, nay thuộc ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước.

Những ngày tháng Ba của mùa Xuân đại thắng

Nửa thế kỷ đã qua kể từ mùa Xuân đại thắng 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam sum họp một nhà, đất nước thống nhất, kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến của dân tộc chống lại đế quốc sừng sỏ và bè lũ tay sai. Tháng 3/1975 là “đêm trước” của ngưỡng cửa chiến thắng. Cục diện chiến trường chuyển biến mau lẹ; không khí cách mạng dâng cao sục sôi; cùng với đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo bằng tất cả ý chí, niềm tin, sức mạnh của Đảng ta, để toàn dân tộc cùng nhau kề vai chung sức, chớp lấy thời cơ, làm nên một chiến thắng vang dội, hào hùng, bất tử.

Thân thương hai tiếng Cà Mau

Cà Mau không chỉ là điểm cuối của đất nước, nơi ai cũng mong một lần được ghi dấu bước chân mình tại cột mốc toạ độ, mà còn là vùng đất để lại trong tim nhiều người những tình cảm khó quên.

Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng - Lịch sử không thể lãng quên

Tôi đồng tình với ông Sáu Sơn (ông Ðỗ Văn Nghiệp, tác giả chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh “Ðiều tra, sưu tầm chứng tích tội ác Mỹ - Nguỵ tại Biệt khu Hải Yến - Bình Hưng” cách đây 20 năm), rằng: “Khép lại quá khứ, không có nghĩa là lãng quên quá khứ. Bài học đúc kết từ quá khứ là bài học bằng xương máu, sẽ có nhiều bổ ích cho hiện tại và tương lai”.

Bến Dựa một lần về

Bến Dựa chỉ là một đoạn sông ngắn, hằng ngày cần mẫn làm người trung chuyển đưa nước lớn về ngã ba Cái Đuốc, ngọn Cái Ngay; tiễn nước ròng ra Cái Nháp, đổ ra ngã ba Tam Giang, xuôi về biển cả. Khu rừng bên bờ Đông Bến Dựa nơi cơ quan Huyện uỷ Tư Kháng (Đầm Dơi ngày nay), làng rừng Huỳnh Ngọc Điệp tồn tại.

Chiều Sài Gòn

Tựa bài viết “Chiều Sài Gòn” nghe như chơi vơi, rất xưa, bởi Sài Gòn - Gia Ðịnh đã có hơn 300 năm tuổi, thì đồng nghĩa cũng có hơn một triệu buổi chiều. Nhưng “Chiều Sài Gòn” tôi viết đây chỉ là chiều 30/4/1975, buổi chiều đầu tiên “Sài Gòn ơi ta đã về đây” như lời bài hát một thời có sức hút mạnh mẽ.

Huyền thoại biệt động thành Cà Mau

Thị xã Cà Mau những năm cuối thập niên 1950, dưới chế độ Mỹ - Diệm, không khí ngột ngạt bởi những cuộc càn quét, bắt bớ. Đám cảnh sát mật vụ, lính bảo an lùng sục khắp nơi, ráo riết truy lùng những người kháng chiến cũ, những người mà chúng nghi là "Việt cộng nằm vùng".

Thăm địa chỉ đỏ

Di tích Hồng Anh Thư Quán (số 43, đường Phạm Văn Ký, Phường 2, TP Cà Mau) là một trong những di tích lịch sử hiếm hoi ghi dấu chặng đường cách mạng của người Cà Mau trước năm 1930. Hồng Anh Thư Quán được công nhận Di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia ngày 4/8/1992.