(CMO) Người ta hay đùa nhau rằng, "không làm cạp đất mà ăn". Nhưng trong thực tế, có một nghề thậm chí từng được xem là “hot” nhất là “cạp đất”, chẳng những có thể sống khoẻ mà còn hái ra bộn tiền.
Độ khoảng 30 năm về trước, khắp các tỉnh miền Tây, đâu đâu cũng có hình bóng của chiếc xáng cạp khổng lồ. Nó là công cụ hữu hiệu trong việc "khai hoang mở cõi". Hễ nơi nào có “rừng thiêng nước độc” là xáng cạp tới để khai thông, mở đường, mở sông.
Nổi trôi đời xáng cạp
Sở dĩ ngày nay lộ làng được thông thoáng, cầu nối cầu, lộ tiếp lộ, xuồng ghe xuôi ngược trên sông nước, trước đó, những công trình hạng nặng, mở tuyến kênh, nạo vét sông rạch luôn có mặt xáng cạp.
Anh Trần Văn Tý theo nghề từ năm 19 tuổi, nay đã ngót nghét 33. Anh có thân hình gầy đét, nước da đen nhẻm, ánh màu đen huyền bóng hới, tóc dài phủ qua tai, che luôn tầm mắt. Người nhỏ thó lại còn gầy guộc ấy vậy mà anh Tý đeo nghề đến tận bây giờ. Cơ duyên đưa anh đến với nghề cũng thiệt “thực tế”: “Không biết làm gì nên... đi xáng”.
Anh Tý bộc bạch: “Quê tôi ở tận Hậu Giang, nhà có hết thảy 3 anh em trai đều đi xáng hết. Tôi là anh thứ ba, cha tôi cũng đi xáng, tính ra cả gia đình đều theo nghề này. Giờ chỉ còn lại má ở quê, thỉnh thoảng mới về thăm nhà”.
"Làm nghề xáng nói sướng cũng sướng, mà nói khổ thì không ai khổ bằng. Chỉ riêng khoản ăn uống, sinh hoạt cũng tù túng hơn người ta. Ban đầu mới vô nghề, được lãnh 400 ngàn đồng. Lúc đó tiền có giá, mọi chi tiêu, sinh hoạt chủ xáng lo hết nên tiền còn nguyên. Có xài được gì đâu, đa phần là vô kênh, vô rừng mới có công trình làm. Mà vô đó thì coi như sống kiểu “người rừng”, không điện, không nước ngọt, có tiền cũng không biết mua thứ gì nên tụi tôi dư dả lắm. Sáng thì làm quần quật, tới sập tối là đi ngủ hết”, anh Tý hài hước.
Một góc hoạt động nghề của xáng cạp. |
Mọi sinh hoạt của "lính" xáng đều chỉ trong vài mét vuông trên sà lan. Nghề này lúc nào mình mẩy không dính sình cũng dính nhớt, phèn nhưng chẳng ai buồn để ý.
"Bây giờ còn đỡ, chớ thời chưa có điện, điện thoại buồn thúi ruột. Có chỗ chúng tôi neo vài bữa, có chỗ neo cả tháng, thậm chí cả năm trời là chuyện bình thường. Lúc thì làm sấp mặt thở không ra hơi, lúc thì nhàn rỗi đâm ra phát chán. Đi tới đâu thì lân la làm quen các hộ trên bờ để lên tắm nhờ, xài ké nước ngọt. Chiều cơm nước xong thì lên coi tivi, lâu lâu cũng lai rai. Mà vui nhất là mấy ngày xáng múc, con nít, ông già bà già kéo nhau ra coi nườm nượp”.
Ngồi một góc co ro, anh Trần Văn Lang, 35 tuổi, anh trai của anh Trần Văn Tý, bên ngoài toát lên vẻ khắc khổ, suy dinh dưỡng hạng nặng. Anh vận nguyên chiếc quần tây dài đen, trổ màu lốm đốm phèn. Chiếc áo thun trắng cũng đã ngả màu phèn nặng ôm sát người. Anh Lang lại cao nên lêu khêu, cũng pha trò: “Ở đây nước phèn không nên tụi tôi mặc cho ấm để khỏi muỗi cắn chớ không cần đẹp. Bởi có ai ngó đâu, nếu có thì đám khỉ trong rừng thôi!”.
Theo nghề đã lâu nên lương anh Lang khá cao, gần chục triệu mỗi tháng. “Vậy mà không có dư, mần nhiêu lo trị bệnh hết. Cũng tính kéo anh em về quê, mà đi xáng quen rồi về cũng không biết làm gì nên chần chừ đến bây giờ”.
Mọi sinh hoạt của "lính" xáng đều diễn ra tù túng trong vài mét vuông. |
Đời xáng - đời người
"Thấy lớn tồng ngồng vậy hết chớ đi xáng ít đứa nào biết chữ lắm". Chỉ tay về phía anh Võ Văn An, anh Lang nói tiếp: "Coi mã đẹp trai, sáng láng vậy mà không biết chữ, không biết sao nó nhắn tin “cua” ghệ được hay thiệt!”.
Anh An mấy hôm trước vừa thoát chết trong gang tấc. Hôm ấy trời mưa to nhưng anh em không tát nước, nên 3 giờ sáng thì xáng chìm. "Thiệt chớ, mấy thằng này chưa tới số, nếu không bữa nay chắc sình ươn hết rồi chớ đâu có ngồi đây nói chuyện. Mà ngộ, xáng chìm mà nó không la làng để trên bờ xuống cứu, kênh thì sâu. May mà không ai ngủ dưới hầm, nếu không trời cứu”, ông chủ nhà chỗ xáng neo đậu (Kinh 12, thị trấn U Minh, huyện U Minh) kể.
"Nào là chảo, xoong, chén, dĩa, mùng, mền tới nhu yếu phẩm, hết thảy đều chìm trong đêm mưa gió. “Mua đại mấy bộ đồ "si đa" mặc đỡ. Có cái điện thoại để đỡ buồn mà cũng chìm nghỉm. Bữa sau thằng An tiếc của lặn xuống mò coi còn vớt vát gì được không, sâu quá nên nó lặn hồi ra máu lỗ tai”, anh Tý chia sẻ.
Chuyện chết hụt thì không lạ gì với "lính" xáng, nhưng ai đã từng thoát khỏi tay “diêm vương” mới thấu cảnh đó. Ai nhát thì bỏ nghề, ai "lì" thì bám tiếp. Mà không bám sao được, không biết chữ, tuổi quá lứa biết tìm việc gì.
Anh An trầm ngâm: “Anh em tôi bỏ mạng mấy người rồi, khi thì cây đè, khi thì sắt rớt, xáng chìm... Mình chết là hết, chỉ tội người thân ở nhà...”, anh An lặng người.
Để thay đổi không khí, anh Tý kể chuyện tình duyên lận đận đời anh: “Mới cưới vợ nên tôi chăm làm lắm. Lúc trước cũng thương cô kia ở Khai Hoang, xã Nguyễn Phích, huyện U Minh. Đeo cả chục năm à, đi tới đi lui mòn hết đôi dép mà nhà cổ thách cưới cao quá nên thôi. Cổ lấy chồng ít tháng tui cũng lấy vợ. Giờ ai yên phận nấy, chỉ lo làm kiếm tiền lo cho vợ con về sau”...
Và đó là chút “tự tình” của người đi xáng, nó mộc mạc và đơn giản như chính con người các anh vậy. Những người "lính" xáng vẫn sống, vẫn đeo nghề dù nghề không còn “thịnh” như trước nữa..../.
Yến Nhi