ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 21-4-25 04:05:40
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Vài nét Năm Căn xưa

Báo Cà Mau (CMO) Quê tôi ở vùng Giáp Nước, Vàm Đình, thuộc huyện Cái Nước, cách Năm Căn chỉ vài chục cây số. Cái Nước được xem như miệt đồng gạch nối giữa hai cánh rừng U Minh và Năm Căn. Ở đây ruộng lúa là chính, xen lẫn với vườn dừa, vườn tạp, lung trấp, đầm lầy, rừng chồi…

Năm 17 tuổi (1973), lần đầu tiên tôi đặt chân tới rừng đước Năm Căn. Là dân Cái Nước nên tôi không xa lạ gì với cây đước, cây mắm, cây giá…, với con cá thòi lòi, con vọp, ba khía, ốc len… do vùng này vẫn xen lẫn mặn - ngọt theo mùa. Nhưng quả tình, rừng Năm Căn ngày đó đã gây ấn tượng không phai mờ với tôi cho tới bây giờ. Sau mấy ngày nằm phục ở trạm giao liên, đêm đầu tiên khi vượt qua sông Bảy Háp, chúng tôi đến được với kinh Tư Là, xã Hàm Rồng (hồi đó là ấp).

Đặt chân tới rừng đước, đêm đầu tiên tôi thật sự hoảng sợ vì… muỗi. Muỗi ở Giáp Nước quê tôi cũng không phải ít, không ai có thể ngủ được khi không có mùng. Nhưng muỗi ở Năm Căn thì thật khủng khiếp, nếu bước ra khỏi vùng khói mẻ un, quơ tay là đụng muỗi lộp độp. Ngồi ăn cơm cũng thật khó bề, vì phải buông chén, buông đũa để liên hồi đập muỗi, cứ nơm nớp lo muỗi bay vào miệng đang nhai cơm. Thế nhưng, lạ thay, dân tại chỗ thì vẫn ngồi ăn điềm nhiên như không, như muỗi chẳng hề đốt họ. Thậm chí có anh say rượu cứ tự nhiên lăn ra ngủ trần, lâu lâu mới thấy cựa mình xua muỗi.

Cũng trong đêm đầu tiên đó, đám dân miệt đồng chúng tôi gặp ngay sự cố đầu tiên do không biết phong thổ. Khi chúng tôi đến đang lúc nước ròng, phải leo thang mới lên được đường cầu để đi vô nhà. Con rạch cạn nước trông thật nhỏ bé. Nhưng sáng ra vừa mở mắt đã thấy nước ngập lai láng cả rừng, nước lên mấp mé đường cầu và sàn nhà, con rạch trở nên lớn rộng. Nhưng nguy nhất là xuồng đậu dưới bến đã biến đâu mất dạng, dù hồi đêm mình đã cẩn thận cột cả dây mũi, dây lái. Hoá ra, vì nước lớn cao hơn nước ròng cả thước nên xuồng bị nhấn chìm đưới đáy nước, do xuồng bị cột dây hai đầu, be xuồng lại bị gài vô chang đước lúc nước dâng, báo hại dầm, chèo, sạp xuồng trôi mất hết.

Là dân miệt đồng, lần đầu tiên đi trên con đường cầu cả cây số, lót bằng những cây đước, dài theo xóm nhà nép mình hoàn toàn dưới tán rừng, vừa có cảm giác kinh ngạc, vừa thật đã mắt, cứ như đi trong một thế giới khác. Nhà cũng không phải ít, có đến vài chục cái. Cũng chẳng phải nhà nhỏ đơn sơ, có nhà rộng như cái hội trường, sàn lót ván đước láng bóng, chỉ có điều không nhà nào có cửa nẻo gì cả. Giữa xóm còn có ngôi Đền thờ Bác Hồ rất tôn nghiêm.

Nhưng phải sau khi vượt được sông Cửa Lớn đến với Rạch Gốc, Khai Long, Rạch Tàu… thì tôi mới cảm nhận được hết cái hùng vĩ của rừng đước Năm Căn. Có thể nói, ngày đó cỡ trên 80% diện tích tự nhiện của huyện Duyên Hải (gồm 2 huyện Năm Căn và Ngọc Hiển ngày nay) nằm phủ kín dưới tán rừng, chủ yếu là đước. Chuyến đi ấy, suốt hàng chục ngày len lỏi trong rừng, ít khi nào nhìn thấy được bầu trời. Trên là lá đước, dưới là thân cây suôn thẳng, cao cỡ 15-20 thước. Bây giờ những vùng đước như vậy không còn nhìn thấy.

Gỗ đước ngày trước được khai thác chủ yếu để hầm than. Một tài liệu cũ cho biết, trước cách mạng Tháng Tám, than đước Cà Mau cung cấp 90% than đốt cho cả Nam Bộ. Sách "Cà Mau xưa" của Huỳnh Minh thống kê, trước năm 1960, vùng rừng đước Năm Căn có 838 lò than. Than đước có nhiệt lượng rất lớn, mỗi ký than đước cho đến 6.660 calo, gấp 2, 3 lần các loại than gỗ khác, chỉ sau than đá. Địa danh Năm Căn cũng liên quan đến than đước. Ngày xa xưa, địa điểm nằm bên bờ sông Cửa Lớn này xuất hiện 5 lò than đầu tiên. Khách thuỷ hành qua lại gọi đây là xóm Năm Căn, người trước truyền lại người sau, gọi mãi thành tên.

Gỗ đước ngày trước được khai thác chủ yếu để hầm than. Ảnh: TRẦN NGỌC LÂM

Còn một ấn tượng khó quên nữa của vùng rừng đước Năm Căn với tôi trong chuyến đi này, đó là sự giàu có quá mức của tôm, cua, cá, nhất là con tôm, vì khi đó chỉ có con tôm khô là có được giá trị thương phẩm. Hồi đó rất ít người làm vuông. Cách khai thác tôm chủ yếu là đóng đáy. Khi nghe các chủ đáy hỏi nhau, hôm nay đáy anh kiếm được bao nhiêu? Có người thì 5, 7 chục ký, có người hơn trăm. Xin được nói cho rõ, những con số này là đã được người ta quy ra tôm khô. Nên biết, phải có 6 kg tôm tươi thì mới làm ra được 1 kg tôm khô. Tôm cá sau khi đóng đáy đem về được đổ trên mặt sàn rộng thường nằm kề mép nước, gọi là liếp lựa. Trên liếp lựa người ta chỉ lựa bắt con tôm thôi, còn cua thì để chúng tự do bò khỏi liếp, rơi rớt xuống nước, cá cũng bị gạt bỏ đi, thảng hoặc người ta mới bắt lại vài con cua gạch hay cá ngon, chủ yếu để làm mồi nhậu cho cánh đàn ông.

Đóng đáy bè trên sông Tam Giang. Ảnh: THANH DŨNG

Cũng trong chuyến đi đầu tiên này, tại bãi biển Rạch Tàu, tôi còn được chứng kiến một cách khai thác sò huyết hết sức ngoạn mục, đó là sạc sò. Người sạc sò ngồi trên một tấm ván, dùng chân đẩy nhẹ cho tấm ván trượt đi trên mặt bùn. Cứ phát hiện một lỗ tròn trên bãi hay nghe tiếng cọ nhẹ dưới tấm ván, đưa tay lượm ngay một con sò, bỏ vào cái thùng gỗ trên ván. Bằng cách đơn giản ấy, người lướt ván có thể di chuyển như bay trên bãi bùn, chẳng khác người ta trượt băng. Phương tiện thô sơ nhưng với tốc độ đáng ngạc nhiên ấy, trong một buổi nước ròng, người sạc sò có thể di chuyển đến vài chục cây số trên vùng đất mới hình thành này của Tổ quốc.

Trên con sông Cửa Lớn ngày đó còn có một cách đánh bắt rất hấp dẫn, là phóng lao để bắt cá dứa. Cá dứa là loại cá da trơn, mình trắng bạc, đuôi vàng lợt, có con nặng đến chục ký, thịt rất ngon, là loại thuỷ sản quý hiếm. Cá dứa rất mê ăn trái mắm. Tháng 9, tháng 10 âm lịch vào mùa trái mắm rụng, trôi theo sông, cá dứa ăn no trái mắm nổi lên, trôi lờ đờ trên mặt nước. Người đi săn một tay ghìm lao, gọi là cây xà búp, một tay lách chèo, xuồng nhẹ nhàng nương theo nước. Mỗi lần ngọn xà búp phóng đi, người đánh cá kéo cọng dây dài nối với cây xà búp là thu về một con cá dứa còn mắc trong mũi lao.

Đã nói đến đặc sản của rừng ngập mặn Năm Căn ngày đó không thể bỏ qua món ba khía Rạch Gốc. Rạch Gốc nằm phía bờ biển Đông, cách chót Mũi Cà Mau chỉ vài chục cây số. Cũng như hầu hết các nơi trên rừng đước, ở Rạch Gốc ba khía vẫn có quanh năm, nhưng hồi ấy người dân ở đây thường chỉ tập trung làm món ba khía muối vào mùa ba khía hội. Mùa hội của ba khía tập trung vào những đêm tối trời cuối tháng 9 và tháng 10 âm lịch. Vào những đêm hội, ba khía kéo nhau ra ven các sông rạch có dòng nước chảy đeo bám oằn cả thân cành các cây mắm, cây đước ven sông. Người đi bắt ba khía hội luôn thủ trên ghe những lu, hũ đã chứa sẵn nước muối hoà tan. Sau khi bắt, ba khía được rửa sạch bằng nước sông và đổ ngay vào các lu, hũ, xem như cả việc khai thác và chế biến đều hoàn tất.

Bắt ba khía vào mùa hội đa phần là ba khía cái và con nào cũng sẵn trong mai khối gạch son dự trữ, thành ra nó dễ thành món ngon. Một vài phân tích gần đây còn cho biết, vùng rừng Rạch Gốc là nơi tập trung loài cây mắm đen với mật độ cao. Tháng 9 và tháng 10 âm lịch cũng là mùa trái mắm chín rụng. Mắm đen là cây tích tụ nhiều nhất chất đạm trong lá và trái so với mọi loài cây của rừng ngập mặn. Trong quá trình phân huỷ, lá và trái mắm đen được các loài nấm tảo, các vi sinh vật ký sinh làm tăng lên từ 2-3 lần hàm lượng đạm, chúng cung cấp cho các loài thuỷ sản và giáp xác sống trên đất sa bồi ngập nước nguồn thức ăn phong phú dạng hạt. Con ba khía Rạch Gốc đã thụ hưởng thứ tinh hoa này của rừng và biển nên thành ra món ngon nổi tiếng.

Tôm khô Đất Mũi, than đước Năm Căn và ba khía Rạch Gốc từng có một thời kỳ dài đóng vai trò chỉ dẫn địa lý cho vùng rừng ngập mặn Cà Mau.

Làng nghề tôm khô ở xã Hàng Vịnh, huyện Năm Căn. Ảnh: THANH DŨNG

Dấu vết xa xưa nhất về sự có mặt của cư dân người Việt đến định cư ở Mũi Cà Mau còn lưu được đến ngày nay là sắc phong của vua Tự Đức cho người có công quy dân, lập ấp đầu tiên ở vùng Viên An, đó là ông Nguyễn Văn Đức. Ngày xưa, xã Viên An chỉ là một xóm nhỏ ở rạch Cái Xép. Thời kỳ Lê Văn Khôi nổi loạn chống triều đình nhà Nguyễn, đánh chiếm thành Phiên An (Gia Định) và 6 tỉnh Nam Kỳ (năm 1833), vùng Viên An nổi lên nạn giặc cướp Chà Và (hải tặc Mã Lai), dân địa phương quen gọi là giặc Tàu Ô (tàu có buồm đen), thường hay theo sông Cửa Lớn vô đánh cướp của cải, tàu bè và bắt đàn bà con gái. Nguyễn Văn Đức là người can trường, giỏi võ nghệ, đã quy tập tráng đinh đánh dẹp giặc cướp tại rạch Đốc Neo (Nhưn Miên). Từ đó, dân chúng tôn ông làm thủ lĩnh bảo vệ lương dân, mở mang việc làm ăn, quy tập được nhiều tráng đinh đổ về và lập nên làng Viên An. Khi ông mất, dân làng lập đền thờ ông như một tiền hiền khai khẩn và vua Tự Đức đã ban sắc phong thần cho ông. Sắc phong đó con cháu ông vẫn còn lưu giữ đến ngày nay và đã được Bảo tàng Cà Mau ghi nhận./.

Sài Gòn, tháng 12/2021

 

Nguyễn Trọng Tín

 

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài 2: Bước chuyển mình của đô thị hoá nông thôn

Khác với sự trỗi dậy mạnh mẽ của các đô thị động lực, như TP Cà Mau, Sông Ðốc và Năm Căn, những làng quê, nơi mà quá trình đô thị hoá đang diễn ra một cách lặng lẽ lại trở thành nơi lý tưởng, đáng sống, ước mơ của nhiều người. Cà Mau, từ một bức tranh tưởng chừng đơn điệu, với ruộng lúa, ao tôm, cánh đồng hoa màu và những con rạch hiền hoà, nay khoác lên mình diện mạo mới, hiện đại hơn, thuận tiện hơn, nhưng vẫn giữ được bản sắc miền Tây sông nước.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh - Bài 3: Giải mã “điểm nghẽn” để khơi thông tiềm năng

Tốc độ đô thị hoá của Cà Mau tăng trung bình 1,3%/năm, phản ánh sức hút và tiềm năng nội tại. Tuy nhiên, con số này vẫn chưa tương xứng với tiềm lực vốn có và còn cách biệt so với khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Quá trình đô thị hoá tại Cà Mau vẫn đang đối diện với những nút thắt cần tháo gỡ.

Xây “đường băng” đưa đô thị vùng Tây Nam cất cánh

Tỉnh Cà Mau đang kiến tạo một nền tảng vững chắc để đô thị hoá trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Ðến cuối năm 2024, tỷ lệ đô thị hoá của tỉnh đạt 33,04%, với 22 đô thị, cao hơn mức trung bình của đồng bằng sông Cửu Long (32,0%) và vượt một số tỉnh lân cận, như Vĩnh Long (28,7%), Hậu Giang (30,5%)... Với TP Cà Mau, Năm Căn và Sông Ðốc làm tam giác động lực, tỉnh không chỉ mở rộng không gian đô thị mà còn tạo sức bật kinh tế toàn diện. Không chạy theo đô thị hoá ồ ạt, tỉnh tập trung xây dựng nền tảng hạ tầng vững chắc, phát huy lợi thế kinh tế biển, logistics và dịch vụ thương mại để trở thành điểm sáng mới của vùng Tây Nam Bộ.

Khởi nghiệp “xanh” - Xu hướng phát triển bền vững - Bài cuối: Khơi thông dòng chảy

Khởi nghiệp dựa vào tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng tài nguyên bản địa của địa phương là một lợi thế. Tuy nhiên, nó cũng có nhiều thách thức cho hoạt động khởi nghiệp nói chung và khởi nghiệp “xanh” nói riêng của tỉnh. Ðể nâng tầm khởi nghiệp “xanh”, Cà Mau đang cần những chính sách hỗ trợ từ Chính phủ. Ðịa phương cũng cần chú trọng hơn đến phát triển kinh tế bền vững và hỗ trợ các mô hình khởi nghiệp “xanh”, cũng như các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, đào tạo, phát triển cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Khởi nghiệp “xanh” - Xu hướng phát triển bền vững - Bài 2: "Ghi điểm" trên "sân nhà"

Khởi nghiệp “xanh” tại Cà Mau mang đến động lực, truyền cảm hứng từ những câu chuyện thực tế của những bạn trẻ đầy nhiệt huyết, mạnh dạn tận dụng sân nhà để phát huy giá trị sản phẩm kinh doanh, gợi mở nhiều cơ hội trong tiến trình khởi nghiệp.

Khởi nghiệp “xanh” - Xu hướng phát triển bền vững

Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đã trở thành xu thế chung của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là chủ trương lớn của Ðảng. Nghị quyết 52/NQ-TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị đã xác định rõ vai trò của khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, trong đó doanh nghiệp là trọng tâm của quá trình đổi mới sáng tạo quốc gia.

Hướng tới chính quyền số toàn diện - Bài cuối: Xây dựng nền hành chính kiến tạo, phục vụ

Nếu chuyển đổi số (CÐS) trong thủ tục hành chính (TTHC) là bước đột phá giúp cắt giảm phiền hà, tiết kiệm thời gian cho người dân và doanh nghiệp, thì xây dựng chính quyền thông minh lại mang tầm vóc lớn hơn. Ðó không chỉ là việc đưa công nghệ vào bộ máy quản lý Nhà nước, mà còn là một cuộc chuyển đổi toàn diện về tư duy điều hành, phương thức hoạt động và tinh thần phục vụ. Không còn cảnh văn phòng hành chính đầy ắp hồ sơ, giấy tờ, chính quyền số hôm nay đang định hình một mô hình làm việc mới: liên thông, minh bạch, gần gũi và lấy sự hài lòng của người dân làm trung tâm.

Hướng tới chính quyền số toàn diện

Hai năm liền (2023-2024), Cà Mau dẫn đầu cả nước về chỉ số phục vụ người dân và doanh nghiệp, đây là dấu ấn nổi bật của tỉnh trong công tác cải cách hành chính (CCHC). Ðể có được thành tựu này, tỉnh không chỉ đơn giản hoá thủ tục mà còn đổi mới mạnh mẽ phương thức phục vụ. Hệ thống một cửa liên thông được triển khai đồng bộ từ cấp tỉnh đến cấp xã, giúp rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, nâng cao tính minh bạch, hiệu quả, sự hài lòng trong dân.

Tự hào vùng đất Tây Nam - Bài cuối: Biển - Dòng chảy phồn vinh

Ðịa bàn biên giới biển toàn vùng Tây Nam trải dài hơn 700 km, chiếm 1/5 tổng chiều dài bờ biển của cả nước, không chỉ là tuyến phòng thủ chiến lược mà còn là nguồn sống của hàng triệu ngư dân. Với hệ sinh thái phong phú, vùng biển này mang trong mình tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế biển, đóng góp quan trọng vào công cuộc dựng xây đất nước.

Tự hào vùng đất Tây Nam - Bài 3: Hồi sinh Ba Chúc

Cách nay 50 năm, trong khi các địa phương trong cả nước đang bắt tay kiến thiết quê hương sau đại thắng mùa Xuân 1975 thì Nhân dân Ba Chúc lại mang thêm trên mình những vết thương của nạn thảm sát diệt chủng Pol Pot. Nếu so sánh xuất phát điểm của vùng đất thanh bình vươn lên sau chiến tranh thì Ba Chúc khởi điểm sau các vùng đất khác 10 năm, với nền tảng ban đầu: đất đai cằn cỗi, nhà cửa xơ xác, cuộc sống của người dân bấp bênh giữa đói nghèo và ký ức đau thương. Trở lại Ba Chúc hôm nay là thị trấn sầm uất của huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.